Theo ông Trương Bá Kiên, nguyên nhân khiến mùa thiên tai năm 2025 trở nên khốc liệt hơn là sự hội tụ của
loạt yếu tố tự nhiên bất lợi cộng hưởng, biến các hiện tượng vốn dĩ bình thường thành những đợt thiên tai có
sức tàn phá cực lớn.
Đầu tiên, hiện tượng La Nina yếu và IOD pha âm đồng thời đẩy lượng nước ấm và hơi ẩm khổng lồ từ hai đại
dương (Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương) đổ dồn về Biển Đông, biến bầu trời Việt Nam thành một “túi nước”
khổng lồ luôn chực chờ tuôn xuống. “Túi nước” này bị kích nổ bởi hiện tượng MJO – một dải mây mưa di chuyển
quanh Trái Đất, đóng vai trò như ngòi nổ gây ra những trận mưa xối xả và bão lũ liên tiếp.
Thông thường, các hình thế gây mưa sẽ di chuyển nhanh chóng. Tuy nhiên, năm nay áp cao cận nhiệt đới xuất
hiện cùng lúc ở phía Bắc, trở thành ‘bức tường’ kiên cố, chặn đứng đường đi của mây mưa và giam chân chúng
tại chỗ. Chính sự cộng hưởng này đã khiến mưa không thể thoát đi, dẫn đến lũ chồng lũ, lụt chồng lụt.
Trên nền đó, biến đổi khí hậu như “chất xúc tác” làm khuếch đại mọi thiên tai.
Biến đổi khí hậu nuôi lớn bão thế nào?
Theo dữ liệu từ The International Best Track Archive for Climate Stewardship (IBTrACS), từ 1995 đến 2025,
có 149 cơn bão đổ bộ Việt Nam, tức trung bình mỗi năm có 5 cơn bão. Trong đó, năm 2025 nổi bật với số cơn
bão dồn dập, cường độ mạnh, và thời gian giữa các lần đổ bộ ngắn. Bão chồng bão kéo theo lũ chồng lũ gây thiệt hại lớn nhất về người và kinh
tế.
Thiên tai liên tiếp khiến ít nhất 468 người chết và mất tích, gây thiệt hại kinh tế ước tính 98.677 tỷ đồng tại 21 trên 34 tỉnh, thành. Hầu hết hệ thống sông trên cả nước đều vượt mốc lũ lịch sử (trừ sông Hồng và sông Đà).
Ngoài nguyên nhân tự nhiên, các tác động từ con người làm trầm trọng thêm thiệt hại. Việc suy giảm diện
tích rừng đầu nguồn làm mất đi “tấm khiên” điều tiết dòng chảy, khiến nước mưa đổ về hạ lưu nhanh và mạnh
hơn. Đồng thời, quá trình đô thị hóa nóng thu hẹp hành lang thoát lũ, kết hợp với vận hành các hồ chứa chưa
tối ưu trước kịch bản thời tiết cực đoan mới, đã tạo nên một phép cộng đầy rủi ro.
“Chính sự giao thoa giữa một thiên nhiên đang biến đổi mạnh mẽ và những hạn chế trong quản lý hạ tầng đã
khiến thiên tai năm 2025 trở nên khốc liệt, khó lường và gây hậu quả nặng nề hơn bao giờ hết”, ông Kiên nhận
định.
PGS.TS Hoàng Minh Tuyển, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thuỷ văn và Tài nguyên nước, nhận định những
đợt lũ lịch sử gây hậu quả nghiêm trọng như tháng 11/2025 và tháng 11/1999 tại miền Trung, hay 8/1971 tại
miền Bắc, đều có “mẫu số chung” là mưa lớn, diện rộng, gây lũ lớn thậm chí lũ kép, đa đỉnh trên các sông,
cộng với bão và ảnh hưởng của triều cao. Trước sức ép dồn dập đó, hệ thống đê điều và kênh thoát lũ đều rơi
vào tình trạng quá tải và vỡ trận.
Theo đánh giá của Cơ quan Hải dương và Khí tượng Mỹ, trận lũ năm 1971 là một trong những trận lũ lớn nhất
thế kỷ 20 và lớn nhất Việt Nam trong hơn 200 năm tính đến thời điểm đó. Gần ba thập kỷ sau, “trận đại hồng
thủy” tháng 11/1999 tàn phá 10 tỉnh thành, để lại hậu quả nặng nề với 595 người chết và mất tích, đồng thời
“phơi bày” lỗ hổng trong hệ thống phòng, chống lũ.
“Từ những đợt bão, lũ lịch sử, tư duy phòng, chống thiên tai cũng thay đổi để đuổi kịp những biến chuyển
của tự nhiên”, PGS.TS Hoàng Minh Tuyển nói.
Hơn 30 năm từ khi Việt Nam luật hoá các quy định phòng chống thiên tai, tư duy ứng phó đã chuyển đổi từ đơn
thiên tai (lũ lụt) sang đa thiên tai; từ chống hoặc tránh lũ, sang chủ động và thích ứng.
Từ trái sang: Khu vực cầu Long Biên (Hà Nội), Đại nội (Huế),
xã Hòa Thịnh (Phú Yên cũ) lần lượt trong trận lụt 8/1971, 11/1999 và 11/2025.
Từ trái sang: Khu vực cầu Long Biên (Hà Nội), Đại nội (Huế),
xã Hòa Thịnh (Phú Yên cũ) lần lượt trong trận lụt 8/1971, 11/1999 và 11/2025.
Ba thập kỷ chuyển đổi tư duy ứng phó thiên tai
Hơn 50 năm gắn bó với ngành thuỷ lợi, GS.TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển và
Nông thôn (cũ), nhớ lại những năm 1980-1990, số lượng bão đổ bộ Việt Nam thấp, mỗi năm trung bình 3-4 cơn,
nhiều nhất là 10 cơn, tập trung vào miền Bắc. Bão thường kéo theo lũ. Mùa lũ tại miền Bắc bắt đầu từ tháng
5, còn miền Trung và miền Nam lũ thường xuất hiện từ tháng 8.
Dựa trên đặc điểm địa hình, thuỷ văn, Bộ NNPTNT xác định chiến lược chống lũ riêng cho từng vùng. Với miền
Bắc là chống lũ và chậm lũ thông qua hệ thống đê, hành lang thoát lũ. Miền Trung lũ lên nhanh, rút nhanh,
thường kéo dài 3-5 ngày, hoặc cao nhất một tuần, nhưng hung dữ và khốc liệt. Do đó, chủ trương là né tránh
lũ, tức điều chỉnh thời gian thu hoạch mùa màng, hạn chế trùng mùa lũ, hay xây dựng tôn nền cao hơn mức lũ
lịch sử. Riêng miền Nam lũ lên chậm, xuống chậm, kéo dài nhiều tháng, nên phương châm là “sống chung với
lũ”.
Thiên tai phổ biến giai đoạn này là lũ lụt, vì thế phương pháp ứng phó chủ yếu là củng cố hệ thống đê điều.
Việc quản lý hồ chứa chưa phức tạp, chỉ có khoảng 10 hồ chứa lớn.
Sau này, tư duy chống lụt truyền thống được mở rộng thành chống lụt bão. Cột mốc đánh dấu sự thay đổi này
là cơn bão Linda năm 1997 đi vào Bạc Liêu – Cà Mau, ảnh hưởng hầu hết Tây Nam Bộ, khiến 3.000 người chết và
mất tích. Hai năm sau, trận lũ lịch sử tháng 11/1999 nhấn chìm Thừa Thiên Huế, gây hậu quả nặng nề cho 10
tỉnh miền Trung với 595 người chết.
Liên tiếp các cơn bão, lũ lớn thúc đẩy Chính phủ sửa đổi Pháp lệnh phòng chống lụt bão 1993, thay thế bằng
Pháp lệnh sửa đổi năm 2000, nhấn mạnh tính chủ động và thích nghi, cụ thể hóa quản lý dòng chảy sông, ứng
dụng công nghệ vào phòng ngừa.
Sau năm 2000, các loại hình thiên tai cực đoan khác như lũ quét, sạt lở ngày càng phổ biến. Trong 10 năm
2000-2009, cả nước xảy ra 147 trận lũ quét, gây thiệt hại lớn về người. Do đó, tư duy phòng chống lụt bão
từng bước được mở rộng thành phòng chống đa thiên tai với sự ra đời của Luật phòng chống thiên tai năm 2013.


Nhiều người dân Cà Mau đứng tìm người thân sau cơn bão Linda. Xã Khánh Hội
(huyện U Minh) là một trong những nơi chịu thiệt hại nặng nhất, với trên 500 người tử nạn, khoảng 140 gia
đình có phụ nữ mất chồng, mất cha và trở thành “làng góa phủ”.
Đến giai đoạn này, công tác phòng chống lũ dựa trên hai giải pháp công trình cốt lõi: cắt, giảm đỉnh lũ
bằng cách chủ động tích nước vào hồ chứa; và củng cố đê điều để tạo lá chắn bảo vệ dân cư và sản xuất. Đây
cũng là thời kỳ hệ thống hồ thủy điện, đặc biệt khu vực miền Trung – Tây Nguyên, phát triển bùng nổ.
Trước đây, Việt Nam chưa có hệ thống hồ chứa. Nhưng sau đó, nội đô Hà Nội hứng chịu nhiều trận lũ do nước
trên thượng nguồn Trung Quốc đổ về gây ngập lụt diện rộng, dù trong nước không mưa. Để giảm thiểu thiệt hại,
Chính phủ chủ trương xây dựng các hồ chứa đa mục tiêu, khởi đầu là hồ Thác Bà (năm 1971), nối sau hồ Hòa
Bình (1994), tạo dung tích phòng lũ lớn cho đồng bằng sông Hồng; hồ Dầu Tiếng (1985), hồ Trị An (1991) lớn
nhất miền Nam…
Quá trình hình thành hồ chứa đa mục tiêu qua các năm


Đến nay, Việt Nam đã có hơn 7.300 hồ chứa. Trong đó, hồ thuỷ lợi chiếm 92% (6.723 hồ), nhưng đa phần là hồ
nhỏ, tổng dung tích khoảng 15 tỷ m3. Hồ thuỷ điện tuy chỉ chiếm 8%, nhưng dung tích lên tới 54 tỷ m3. Trong
số này, chỉ khoảng 300 hồ chứa có cửa van (200 đập thuỷ lợi, 100 thuỷ điện) có khả năng phòng, cắt lũ cho hạ
du.
Lý giải nguyên nhân, GS TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó chủ tịch thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước
Việt Nam, cho biết trong quy hoạch, một số hồ vốn không có chức năng phòng lũ. Từ năm 2010, Chính phủ lần
đầu yêu cầu lập quy trình liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông lớn. Đó cũng là giai đoạn hồ thủy điện phát
triển bùng nổ dọc lưu vực sông các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên, khi vấn đề an ninh năng lượng trở nên bức
bách.
Song nhà quản lý chưa nhận thức đúng tác dụng phòng lũ của hệ thống hồ chứa trên cùng lưu vực sông, thiếu
cơ chế rõ ràng, trong khi nhà đầu tư chỉ có một mục tiêu phát điện. Chỉ khi ban hành quy trình vận hành chi
tiết cho từng lưu vực mới giao thêm nhiệm vụ phòng lũ, nên dung tích phòng lũ nhỏ, nhất là ở miền Trung.
Theo ông Dũng, với khu vực này, hồ chứa chỉ có tác dụng giảm lũ chứ khó có thể cắt lũ, đặc biệt trước các
trận lũ lớn. Như sông Hương, theo tính toán của Hội Đập lớn, tổng lượng lũ vào tháng 10 – 11/2025 khoảng 2
tỷ m3, đổ xuống đồng bằng 300 km2. Lưu lượng dự kiến một trận lũ là 12.000-13.000 m3/s, chỉ cần 2,5 giờ đã
làm đầy sông Hương.
“Để thoát được 2 tỷ m3 nước đó, cần phải tới 10 con sông Hương may ra mới làm được”, ông Dũng phân tích.
Thêm vào đó, thiết kế hồ đập từ hơn một thập kỷ trước hiện không còn đáp ứng lượng mưa ngày càng cực đoan.
Đặc điểm lũ hiện nay là lũ kép với hai đỉnh lũ liên tiếp. Trong khi, thiết kế hồ đập ban đầu theo quy luật
lũ đơn, lên cao rút nhanh nên khi lũ kéo dài, dồn dập, việc dự báo và vận hành hồ trở nên bị động.
Hồ thuỷ điện Sông Ba Hạ (Phú Yên cũ) xả lũ ngày 8/11/2025. Đây là một trong
những hồ có hệ thống cửa van, khiến việc điều tiết lũ trở nên chủ động khi có thể tùy chỉnh lượng nước xả
ra bằng hoặc lớn hơn lượng nước lũ đổ về hồ để đảm bảo an toàn.
GS TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007-2012), Chủ tịch Hội thủy
lợi Việt Nam cho biết trước đây khi ngành thủy lợi làm quy hoạch cho các lưu vực ở miền Trung, sông nào cũng
có dung tích phòng lũ. Song khi thay đổi đầu mối quản lý, với việc xây dựng ồ ạt nhiều dự án thủy điện, các
bộ ngành phối hợp không chặt chẽ, nên dung tích phòng lũ ở miền Trung gần như không có hoặc không đáng kể.
“Tồn tại này kéo dài tới nay đã gần 25 năm dù nhiều chuyên gia, trong đó có tôi, từng lên tiếng”, ông nói.
Theo ông Học, trước năm 2002, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đầu mối duy nhất phụ trách tài
nguyên nước ở Việt Nam, bao gồm các lưu vực sông. Sau đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường ra đời với kỳ vọng
thống nhất cơ quan quản lý tổng hợp tài nguyên thiên nhiên, môi trường, khí tượng thủy văn, địa chất khoáng
sản và biến đổi khí hậu. Do đó, Phòng Quản lý Tài nguyên nước được chuyển từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (NNPTNT) về Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Việc quản lý tài nguyên nước bị “xé lẻ” từ đây.
GS TS Đào Xuân Học dẫn chứng, trên một dòng sông, Bộ Nông nghiệp quản lý đê, kè, cống, công trình dọc hai
con đê. Còn Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý khai thác cát và nước ở giữa sông, nhưng khai thác cát lại
là nguyên nhân chính dẫn tới sụt lở kè, bờ sông, đê sông, hạ thấp mực nước sông.
Về quản lý hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ do Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt, nhưng tới mùa lũ
việc điều hành phụ thuộc vào Ban chỉ đạo quốc gia về phòng chống thiên tai do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn (NNPTNT) làm Thường trực. Tại địa phương, việc thẩm định các dự án thủy điện do Sở Tài nguyên Môi
trường chịu trách nhiệm. Song họ không có đội ngũ chuyên môn như kỹ sư thủy lợi hiểu biết về dòng chảy để
đánh giá nguy cơ sạt lở, kiểm tra cấp phép và sự an toàn, tác động các mặt của nhà máy thủy điện.
“Đây là quyết định sai lầm. Không có đất nước nào trên thế giới như Việt Nam trong quản lý tài nguyên
nước”, ông nói và cho biết đa số các nước chỉ có một ban quản lý lưu vực sông toàn quyền quyết định mọi vấn
đề trên con sông đó.
Đồng quan điểm, TS Đặng Thanh Lâm, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam, cho rằng sự phân mảnh
trong quản lý, khai thác nguồn nước biến các kịch bản ứng phó thiên tai từ vị thế “chủ động kiểm soát rủi
ro” sang trạng thái “thụ động theo tình huống”.
Theo chuyên gia, việc phát triển một số công trình thủy điện theo quy hoạch điện độc lập phá vỡ tính “đa
mục tiêu” vốn có của công trình thủy lợi – thủy điện. Mục tiêu phát điện mâu thuẫn với điều tiết lũ, khiến
dòng chảy của một con sông bị chia cắt quản lý theo ngành thay vì được nhìn nhận như một thực thể thống nhất
cần bảo vệ.
Đơn cử, trong mùa lũ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường – đơn vị quản lý công tác phòng chống thiên tai và đơn
vị tư vấn (ví dụ Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam) có công cụ tư vấn, dự báo và kịch bản xả cho hồ thủy lợi,
nhưng chưa tiếp cận được phương án vận hành điều tiết dài hạn của thủy điện để có kịch bản phối hợp từ sớm.
Việc tách biệt thủy điện ra khỏi quy hoạch thủy lợi lưu vực sông để đưa vào
quy hoạch điện độc lập đã phá vỡ tính “đa mục tiêu” vốn có của công trình thủy lợi – thủy điện.
Từ bị động sang chủ động
“Tư duy phòng tránh thiên tai theo kinh nghiệm quá khứ đã không còn phù hợp”, ông Trương Bá Kiên, Viện Khoa
học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, đánh giá khi nhìn lại những kỷ lục thiên tai liên tiếp bị phá vỡ
trong năm 2025.
Ông đánh giá trước đây công tác phòng chống thiên tai chủ yếu mang tính ứng phó bị động, tập trung khắc
phục hậu quả sau khi thiên tai. Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã từng bước chuyển sang tư duy quản trị rủi
ro thiên tai chủ động. Đơn cử, ngành khí tượng thuỷ văn từng bước chuyển đổi từ dự báo hiện tượng sang dự
báo dựa trên tác động, dù còn ở giai đoạn đầu. Nhiều bản tin bắt đầu gắn thông tin mưa, gió với nguy cơ ngập
lụt, lũ quét, sạt lở và khuyến nghị hành động, phản ánh sự thay đổi căn bản về tư duy quản trị rủi ro.
“Sự thay đổi từ tư duy phòng tránh bị động sang quản trị rủi ro chủ động dựa trên khoa học, dữ liệu và công
nghệ là nền tảng để Việt Nam nâng cao năng lực chống chịu trước thiên tai ngày càng khốc liệt trong tương
lai”, ông Kiên cho biết.
Để nâng cao vai trò chủ động từ phía người dân, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam Đào Xuân Học kiến nghị nhân
rộng mô hình quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng. Theo đó, các địa phương xây dựng phương án phòng tránh
thiên tai cho từng làng xã, xây dựng nhà cộng đồng, thành lập các đội tự nguyện, làm tốt việc di dời.
Một em bé được lực lượng chức năng sơ tán ra ngoài khu vực cô lập trong trận
lụt cuối tháng 10/2025 tại Đà Nẵng.
Song song đó, GS Học đề xuất tổ chức lại các cơ quan quản lý tài nguyên nước thành một đầu mối duy nhất,
chịu trách nhiệm lập chiến lược phòng chống lũ lụt tổng thể và vận hành an toàn hệ thống sông, hồ chứa. Ông
đánh giá cao quyết tâm của Chính phủ khi hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên
và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Tuy nhiên, ông cho rằng với mô hình quản lý tài nguyên
nước hiện tại, việc sáp nhập mới chỉ là “phép tính cộng”, phân mảnh.
Ông dẫn chứng, Cục Quản lý tài nguyên nước, Cục quản lý và xây dựng công trình thủy lợi phụ trách công
trình thủy lợi, cống dưới đê, trạm bơm, lũ lụt; Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống thiên tai lo đê, kè, lũ
lụt. Về cơ bản vẫn là ghép cơ học các đơn vị cũ, nên chức năng còn chồng chéo, hoặc quá tách bạch, thiếu sự
gắn kết.
Đối với quản lý an toàn đập, GS Nguyễn Quốc Dũng cho rằng cần chuyển từ cách tiếp cận dựa trên nguy cơ sang
thông tin rủi ro, trong đó rủi ro được tính bằng nguy cơ nhân với hậu quả. Nguy cơ phụ thuộc chiều cao, chất
lượng đập và các yếu tố khách quan như lũ, động đất. Hậu quả là tổn thất do tác động của đập đối với hạ du
về con người, tài sản và môi trường. Do đó, không phải cứ đập cao là rủi ro cao, đập nhỏ vẫn có thể rủi ro
lớn. Ông Dũng đề xuất cần sớm xây dựng Luật an toàn đập để có chế tài đủ mạnh, đặc biệt trong việc điều phối
liên ngành khi có sự cố xảy ra.
Từ phía ngành khí tượng thuỷ văn, ông Trương Bá Kiên cho biết trọng tâm mới là chuyển đổi sang dự báo dựa
trên tác động (Impact-Based Forecasting-IBF), tức trả lời trực tiếp những câu hỏi cốt lõi mà chính quyền và
người dân cần biết: ai sẽ bị ảnh hưởng, ở đâu, khi nào và mức độ ra sao… Cụ thể như biết trước khu vực nào
nguy cơ ngập sâu, tuyến giao thông nào dễ bị chia cắt, bao nhiêu hộ dân cần sơ tán và thời điểm nguy hiểm
nhất. Việc chuyển sang dự báo dựa trên tác động giúp thu hẹp khoảng cách giữa thông tin khoa học và quyết
định thực tế, biến dự báo từ “thông tin tham khảo” thành công cụ kích hoạt hành động.
“Thực tiễn thiên tai cực đoan năm 2025 cho thấy đã đến lúc phải thay đổi căn bản phương pháp và tư duy ứng
phó, không thể chậm trễ hơn”, ông nói.
Nguồn: https://vnexpress.net/2025-nam-thien-tai-vuot-nguong-va-gioi-han-cua-he-thong-phong-thu-4999742.html

