Trong khoảng thời gian đó, những trẻ khác ùa chạy đi trốn, nấp đâu đó càng kín càng tốt. Khi đọc đến con số 100 thì trẻ mở mắt ra và bắt đầu đi tìm bạn, ai bị phát hiện đầu tiên là bị thua. Đếm đủ con số như thế, lâu lắm, có trẻ láu cá đọc tắt cho nhanh để khi mình mở mắt ra thì các bạn vẫn chưa kịp trốn. Câu đó như sau: “Một đôi, hai đắn, ba thìn, chín chăn, chẵn chục”.
Thời nhỏ, tôi đã chơi trốn – tìm và nay con tôi cùng trẻ con hàng xóm cũng thế. Năm tháng đi qua, mãi hơn 60 năm sau, nhờ đọc Phan Khôi di cảo – bản thảo chưa đầy đủ (NXB Trí Thức – 2021) do các con của cha đẻ Tình già biên soạn, tôi mới biết chi tiết này: “Trẻ con ta có trò chơi đánh chắt. Dùng những que tre mà đánh, là đánh chắt que; dùng những hòn sỏi mà đánh, là đánh chắt chuyền. Đây không nói cách đánh như thế nào, chỉ nói khi đánh xong một bàn, đếm những que tre hay hòn sỏi đã chiếm được để định ăn thua, thì trẻ con ở Trung và ở Bắc đếm có khác nhau nhưng lại giống nhau ở một chỗ rất lạ. Trẻ con ở miền Trung đếm: “Một đôi, hai đắn, ba thìn, chín chăn, chẵn chục”. Trẻ con ở miền Bắc đếm: “Một chắt, hai choi, ba chòi, chín chủ, chẵn chục” (tr.216-217).
Trò chơi này, sở dĩ gọi chắt/đánh chắt bởi bản thân chắt/hòn chắt có nghĩa là “hòn nhỏ nhỏ như viên đạn” (Đại Nam quấc âm tự vị, 1895), “Một trò chơi của trẻ con, một tay vừa nhặt vừa tung vừa hứng” (Việt Nam tự điển, 1931); hiện nay tên gọi phổ biến là “chuyền thẻ”, có nơi còn gọi “đánh nẻ”.
Rõ ràng, cách đọc tắt trong trò chơi trốn – tìm đã có từ xưa lắm, ít ra đã có trước năm 1958 là năm ông Phan Khôi viết bài này. Ở đây, khi xét về chữ nghĩa ta thấy gì? Muốn thấy gì, trước hết cần phải tìm hiểu nghĩa của các từ đó.
“Một đôi” thì dễ hiểu rồi, không cần dài dòng gì thêm. “Hai đắn” thì “đắn” là gì? Tự bản thân từ này không có nghĩa, phải đi chung với từ khác, chẳng hạn Truyện Kiều có câu: “Đắn đo cân sắc cân tài/Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”. Kể ra cái lối “mua người” ngày xưa cũng lạ, chẳng những cô ấy có nhan sắc mà còn phải biết “cầm kỳ thi họa đủ mùi ca ngâm” thì càng cao giá.
Còn “ba thìn” thì sao? “Thìn” là từ Việt cổ có nghĩa là “sửa sang, răn, giữ”, theo Đại Nam quấc âm tự vị (1895), chẳng hạn Thiên Nam ngữ lục có câu: “Thìn lòng tích đức tu nhân/Bụt trời đã biết, quỷ thần đã hay”. Về tâm lý con người, không phải bây giờ mà hàng trăm năm trước, cụ Nguyễn Trãi đã nhìn ra:
Dắng dỏi bên tai tiếng quản huyền,
Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn.
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
“Nhẫn” nghĩa là đến, cho đến. Chí lý thật, có lúc nghe tiếng sáo, tiếng đàn (quản huyền) trong không gian, cảnh vật mà mình yêu thích ắt khó giữ lòng mà xao động, xao xuyến, rồi cảm thấy tiếc xuân xanh đã qua. Đã qua thời tuổi trẻ. Chỉ còn là cảm xúc bùi ngùi. Sực nghĩ, “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn” của Thế Lữ cũng là lúc nghe Tiếng sáo Thiên Thai nên khiến “Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn” là vậy.
Rồi, “chín chăn” nghĩa là gì?
Ta thử đặt giả thuyết từ “một đôi” là 2, “hai đắn” là 4, ắt “ba thìn” là 6, vậy “chín chăn” cũng nằm trong cách tính này? Không, “chín chăn” trong ngữ cảnh này chính là chẵn/chín chẵn, do cách phát âm nhanh nên đã lướt bỏ dấu ngã trở thành “chăn”. Chẵn là trọn, đủ, không lẻ, không thừa, không thiếu, đủ cặp, không so le, còn có cách nói chẵn chòi, chẵn bon. “Chín chăn” xác định, quả quyết chính xác là 9. Suy luận này hợp lý bởi kết thúc câu này là “chẵn chục” tức là 10. Theo nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ, “chục” là tiếng Việt chuyển gốc Hán-Việt: “Chục: số vật mười món, hoặc có hơn (tùy vùng) thốc (sum họp, một bụi – giọng Quảng Đông: chục)”. Ca dao có câu:
Bảy với ba, anh kêu rằng một chục
Tam tứ lục, anh tính cửu chương
Bảy cộng ba đúng là 10, là chục. Cách gọi “chẵn chục” đến nay vẫn còn phổ biến, còn gọi chục trơn, chục chẵn. Dù biết chắc là vậy nhưng chắc gì chục là 10?
Ta có thể kiểm chứng trong đời thường lẫn tác phẩm văn học, chẳng hạn, khi viết Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, nhà văn Nguyễn Hiến Lê có kể khi đến “Tân An, một châu thành nằm ở ven Đồng Tháp”, lúc đi chỗ ăn sáng: “Anh Bình nhất định lựa tiệm ở gần chợ vì anh vốn ưa cảnh náo nhiệt, thích nhìn người ta đi lại, mua bán. Anh mua một trái dưa hấu và một chục quít, ngạc nhiên lắm khi thấy cô hàng đếm cho anh mười hai trái. Anh cầm hai trái trả lại: “- Cô đưa thừa cho tôi. Tôi mua có một chục thôi mà”. Cô hàng nghe giọng là lạ của anh, mỉm cười, đẩy hai trái quít về phía anh: “- Thầy mua một chục thì tôi đếm một chục đó”. Anh Bình chẳng hiểu gì cả, tôi phải giảng: “- Ở miền này trái cây như quít, mận thì một chục là mười hai trái. Có tỉnh một chục mười bốn hay mười sáu kia”. “- Lạ nhỉ! Một chục mười sáu trái. Thế thì có ông thánh hiểu”.
Chi tiết này đã phản ánh tính cách rộng rãi, hào phóng của người miền Nam. Anh Bình ngạc nhiên là phải bởi anh từ ngoài Bắc vào, không sinh sống nơi này.
Với các phân tích, dẫn chứng vừa nêu, tóm lại, ta vẫn không hiểu rõ nghĩa các từ liên quan đến số đếm trong trò chơi của con trẻ ngày xưa. Không những thế, ta còn còn ngắc ngứ với bài đồng dao này: “Mồng một lưỡi trai/Mồng hai lá lúa/Mồng ba câu liêm/Mồng bốn lưỡi liềm/Mồng năm liềm giật/Mồng sáu thật trăng/Mười rằm trăng náu/Mười sáu trăng treo/Mười bảy sảy giường chiếu/Mười tám rám trấu/Mười chín đụn dịn/Hăm mươi giấc tốt/Hăm mốt nửa đêm…”. Với câu “Mười chín đụn địn”, có bản ghi “đụn dịn”. Bài đồng dao này mô tả hình thù mặt trăng qua các ngày, đại khái, đêm 17 trăng lên vào lúc người ta “sảy giường chiếu” là chuẩn bị ngủ, đêm 18 trăng mọc là lúc lửa ủ trong bếp đã “rám trấu”… Thế, đêm 19 “đụn địn/đụn dịn” thì hiểu thế nào đây?
Chịu.
Từ “chịu” này, ta lặp lại một lần nữa khi nghe đến từ “đí địn”. Trong tập sách Người Việt nói tiếng Việt (NXB TH TP.HCM – 2023), nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thọ cho biết văn cảnh xuất hiện của từ này: “Chuyện rằng có một chị vợ cực đoảng. Một hôm anh chồng bắt được một con ba ba, giao cho vợ làm bếp rồi đi làm đồng, bụng chắc mẩm chiều về có mồi ngon sẽ rủ bạn lai rai vài xị đế. Chị vợ thả con ba ba vào nồi, bỏ thêm vào đó vài ngọn rau mùng tơi rồi bắc lên nấu trên bếp củi. Trong khi chị lúi húi vo gạo thì con ba ba thấy nước nóng lên, nó bèn bò ra khỏi nồi rồi đi mất. Chị vợ đoảng vo gạo xong, mở vung nồi canh xem thử. Chị ta lấy đũa khoắng, nhận ra rau mùng tơi vẫn chưa kịp chín, nhưng ba ba đâu thì chẳng thấy. Chị ta cứ bần thần ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đi đến kết luận: “Mùng tơi chưa chín, đí địn đã tan”.
Dám nói rằng, những từ vừa nêu ra chẳng ai có thể giải thích nổi nghĩa của nó. Riêng cách nói về số đếm trong trò chơi đánh chắt, ta còn thắc mắc vì sao ở miền Trung, từ “3/ba thìn” lại nhảy qua “9/chín chăn”, cũng như ở miền Bắc từ “3/ba chòi” lại vọt đến “9/chín chủ”?
Cách nói này hoàn toàn không ngẫu nhiên mà đã vận dụng, phổ biến trong tục ngữ, ca dao, thí dụ: “Thằng Bờm có cái quạt mo/Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu”, “Ba bể chín châu”, “Ba bị chín quai mười hai con mắt”… Ông Phan Khôi thừa nhận: “Tôi nghĩ mãi mà không hiểu”. Rồi ông nêu ý kiến: “Hoặc giả câu trẻ con nói đó có cái lý gì sâu kín về số học hay toán học mà mình không biết. Còn như bảo thứ đó trẻ con bạ đâu nói đấy, hơi đâu mà tìm hiểu cho mệt trí, thì tôi không dám” (SĐD, tr.217).
Bạn cũng nghĩ thế chăng?
Vâng, tôi cũng nghĩ thế. Và xét ra trong ngày xuân ngày tết, chúng ta cùng bàn về vài từ “bí hiểm” đâu phải không có ích khi cùng tìm về tiếng Việt.
Nguồn: https://thanhnien.vn/tim-ve-vai-tu-bi-hiem-trong-tieng-viet-185241231162544575.htm