Trước năm 1987, việc bảo tồn tài nguyên di truyền đã được thực hiện nhưng còn tản mạn. Giai đoạn 1987-2010, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã ban hành quy chế tạm thời về quản lý và bảo tồn nguồn gien thực vật, động vật và vi sinh vật. Hơn 10 năm qua, Nhà nước đã ban hành khung pháp lý tương đối đầy đủ liên quan đến bảo tồn, khai thác, sử dụng nguồn gien thực vật, động vật và vi sinh vật.
Tháng 9/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1671 phê duyệt Chương trình Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gien đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. Triển khai thực hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành các văn bản quản lý và phê duyệt đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gien.
Số lượng nguồn gien thu thập được tăng nhanh từ năm 2010 đến nay, nhất là từ khi có Quyết định 1671 nêu trên; trong đó, nguồn gien cây trồng nông nghiệp tăng nhiều nhất, từ 9.000 (năm 2010) lên 47.772 nguồn gien (năm 2023); cây lâm nghiệp tăng từ 60 lên 5.768 nguồn gien; cây dược liệu từ 500 lên 7.039 nguồn gien; vật nuôi tăng từ 55 lên 891 nguồn gien; thủy sản từ 75 lên 391 nguồn gien và vi sinh vật từ 18.770 lên 19.050 nguồn gien.
Các nhà khoa học đã đánh giá ban đầu trên 55.800 nguồn gene, đánh giá chi tiết trên 14.100 nguồn gien. Việc đánh giá chi tiết nguồn gien cây trồng được tập trung vào khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện môi trường bất thuận, phân tích chất lượng nguồn gien.
Ðiển hình như Trung tâm Tài nguyên thực vật đã đánh giá, phục tráng ba giống lúa gạo màu địa phương với nhiều tiềm năng, đặc tính nổi trội. Nhóm nghiên cứu đã phối hợp doanh nghiệp xây dựng mô hình liên kết sản xuất lúa gạo để đưa sản phẩm ra thị trường.
Hệ thống mạng lưới bảo tồn cây trồng đã khai thác phát triển sản xuất hàng trăm nguồn gien cây trồng bản địa như các giống lúa: Tám đa dòng T3, Tẻ thơm LT3, Dự thơm Thái Bình, Di hương Hải Phòng; bưởi Quế Dương, hồng Yên Thôn, xoài Vân Du…
Với nguồn gien dược liệu, các nhà khoa học đã đánh giá ban đầu 1.531 nguồn gien thuộc 884 loài đang lưu giữ, bảo tồn; tập trung đánh giá chi tiết, hoàn thiện dữ liệu về đặc điểm sinh học, nông học của 500 loài cây thuốc. Nhiều công nghệ, kỹ thuật hiện đại được áp dụng để đánh giá một số nguồn gien, như nguồn gien sâm Ngọc Linh đã được nghiên cứu giải mã hệ gien; đồng thời xây dựng được các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa (Lào Cai); Tam Ðảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Nội), Ðồng Văn (Hà Giang)…
Từ nguồn gien dược liệu được bảo tồn, đến nay, đã có hơn 50 loài dược liệu được khai thác phát triển và một số loài đã được thương mại hóa. Nhiều nguồn gien được chọn lọc và đang phát triển ở quy mô sản xuất, xây dựng vùng trồng quy mô lớn như: sâm Ngọc Linh, tam thất hoang, đinh lăng; bảy lá một hoa, hà thủ ô đỏ…
Các nhà khoa học đã điều tra, thu thập bổ sung 48 nguồn gien vật nuôi và bảo tồn được một số nguồn gien như bò U đầu rìu (Nghệ An), gà Hồ (Bắc Ninh), lợn Móng Cái (Quảng Ninh), gà Ðông Tảo (Hưng Yên), gà Mía (Sơn Tây, Hà Nội)… Nhiều nguồn đã và đang được khai thác, phát triển hiệu quả trên toàn quốc như lợn đặc sản: Mán (Hòa Bình), Mường Khương (Lào Cai); gà Móng (Hà Nam), Ðông tảo; vịt Bầu Bến (Hòa Bình), Kỳ lừa (Lạng Sơn); bò H’Mông…
Với nguồn gene thủy sản, các nhà khoa học đã bảo tồn, lưu giữ 391 nguồn gien của gần 80 loài thủy hải sản với hơn 6.000 cá thể. Một số nguồn gien đã và đang đưa vào các chương trình khai thác, phát triển giống như: cá Rầm xanh, cá Anh vũ, cua Huỳnh đế… Một số nguồn gien được cung cấp nguyên liệu cho chương trình chọn giống mang lại giá trị kinh tế cao như: cá tra, tôm càng xanh, cá rô phi.
Một trong những nguồn gien lưu giữ rất thành công để lai tạo chọn giống là cá chép, đã tạo ra thế hệ con lai cho tốc độ sinh trưởng tăng 21%. Với cá rô phi, dòng cá NOVIT4 được đăng ký và cung cấp cho tất cả các tỉnh trong cả nước làm cá bố mẹ để sản xuất giống cung cấp cho nhu cầu nuôi thương phẩm…
Các nhiệm vụ nghiên cứu bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gien đã đem lại niềm hy vọng cho các nhà khoa học, nhà quản lý, nhất là những người dân khi được chứng kiến các giống cây trồng, vật nuôi bản địa được phục tráng, đưa vào sản xuất, thương mại.
Ðể đạt được mục tiêu Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt ra, cần gia tăng nguồn lực khoa học, công nghệ nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gien góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước.
Ông Lưu Quang Minh, Phó Vụ trưởng Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế-kỹ thuật (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Từ năm 2016 đến nay, công tác thu thập, bảo tồn, phục tráng, lưu giữ, phát triển nguồn gien được triển khai đồng bộ, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
Những đơn vị triển khai chủ yếu là viện nghiên cứu, trường đại học và có sự tham gia của doanh nghiệp. Ðến nay, đã triển khai được 200 nhiệm vụ về khai thác, phát triển nguồn gien, chia đều cho tất cả các lĩnh vực như lâm nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi và hiện đã có 83 nhiệm vụ đã kết thúc.
Các nguồn gien được khai thác, phát triển trên vật liệu di truyền được bảo tồn. Ðánh giá sơ bộ ban đầu, nguồn gien đều có giá trị kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân. Công tác khai thác, phát triển đạt nhiều kết quả góp phần tái cấu trúc ngành nông nghiệp hoặc thay đổi cơ cấu về xuất khẩu.
Giáo sư, Tiến sĩ Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, theo xu hướng phát triển và hội nhập, Việt Nam hướng tới thúc đẩy phát triển nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Do vậy, triển khai Chương trình Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gien giai đoạn 2025-2030 cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản chuyên sâu về nguồn gien (số hóa nguồn gien theo chuẩn quốc tế, duy trì bảo tồn, đăng ký sở hữu trí tuệ…) kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gien động vật, thực vật và vi sinh vật học.
Trong thời gian tới, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gien cần tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa. Ðể làm được điều này, cần có chính sách đồng bộ trong việc tăng đầu tư của Nhà nước, chia sẻ nguồn gien giữa các mạng lưới quỹ gien, giữa các đơn vị, cá nhân, tổ chức, giữa các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nghiên cứu, bảo tồn nguồn gien cần có cơ chế phù hợp nhất để không mất nguồn gien nhưng cũng không quá nặng nề về số lượng; cần sớm có cơ chế bàn giao nguồn gien quý hiếm, quy chế hoạt động cụ thể cho mạng lưới quỹ gien, cơ chế đặc thù cho những nguồn gien đặc biệt… nhằm bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển bền vững nguồn gien tại Việt Nam.
Nguồn: https://nhandan.vn/bao-ton-va-khai-thac-cac-nguon-gien-quy-hiem-post862403.html