Quần thể rừng pơ mu nằm ẩn giấu trên đỉnh Kon Ka Kinh, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Hàng chục năm qua, đồng bào Ba Na tự hào vì làng có “báu vật” và xem đây là cánh rừng thiêng, bất khả xâm phạm.

Chúng tôi theo chân lực lượng bảo vệ rừng số 6 của Vườn Quốc gia (VQG) Kon Ka Kinh cùng người dân Kon Kring, xã Kon Pne, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai mục sở thị rừng pơ mu hàng trăm năm tuổi.
Rừng pơ mu cổ thụ nằm trong vùng lõi VQG Kon Ka Kinh, với độ cao hơn 1.400m so với mực nước biển. Đường lên đỉnh núi vô cùng gian nan, nguy hiểm với nhiều dốc cao, vực sâu. Bởi vậy, hành trình không dành cho những người ít kinh nghiệm đi rừng. Khách du lịch, người dân từ xa cũng hiếm có cơ hội ghé thăm “vương quốc pơ mu” này.
Từ sáng tinh mơ, anh Nguyễn Thanh Cao (SN 1986), Trạm trưởng Trạm bảo vệ rừng số 6 dậy sớm, cùng đồng nghiệp chuẩn bị cơm nắm, lương khô, nước uống cho hành trình dài leo đỉnh Kon Ka Kinh.
Khi trời còn hơi sương, anh Trần Trung Diệu, cán bộ bảo vệ rừng thuộc Trạm bảo vệ rừng số 6, gọi đồng nghiệp, lực lượng kiểm lâm và dân làng Kon Kring khởi hành lên rừng pơ mu.
Trên hành trình vượt núi, anh Nguyễn Thanh Cao cho biết, rừng pơ mu nằm ở tiểu khu 94, 97, thuộc xã Kon Pne, huyện Kbang. Mỗi tháng, lực lượng bảo vệ rừng cùng bà con làng Kon Kring sẽ tổ chức tuần tra rừng pơ mu. Đường lên rừng rất hiểm trở nên phải cần người có kinh nghiệm dẫn đường.

Theo anh Diệu, pơ mu là loài cây gỗ quý hiếm, thuộc ngành thông, họ hoàng đàn và được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam. Loài cây này quen thuộc với người dân phía Bắc nhưng rất hiếm đối với vùng Tây Nguyên. Cây mọc ở độ cao 1.000-1.500m, ưa lạnh. Cây dáng thẳng, tán lá sum suê và có mùi thơm tinh dầu nên rất dễ nhận biết giữa rừng.
“Pơ mu mọc thành những quần thể trên đỉnh núi cao, cây to nhất phải 6-7 người ôm không xuể. Những cây này thường nằm ở vị trí hiểm trở như bờ vực, vách đá nên chỉ dám đứng nhìn từ xa”, anh Diệu bộc bạch.
Theo anh Diệu, hàng chục năm trước, khi rừng pơ mu chưa được quy hoạch, bảo tồn, tình trạng khai thác diễn ra tràn lan. Sau khi loài cây này được đưa vào danh mục thực vật rừng nguy cấp và do VQG Kon Ka Kinh quản lý, bảo vệ, tình trạng khai thác mới chấp dứt. Tuy vậy, lực lượng bảo vệ rừng vẫn phải luôn tuần tra, không dám lơ là vì pơ mu là gỗ quý nên luôn bị lâm tặc dòm ngó.
Giữa cánh rừng già âm u, lớp sương mờ ảo, chúng tôi đã thấy những cây pơ mu cổ thụ khổng lồ, 3-4 người ôm không xuể hiện ra trước mắt. Thân cây rêu phong, cao 30-40m, thậm chí có cây cao trên 50m như ôm trọn lấy đỉnh núi Kon Ka Kinh.

Trạm bảo vệ rừng số 6 thuộc VQG Kon Ka Kinh nằm ở “ốc đảo” xã Kon Pne, cách thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai khoảng 250km. Trạm có 7 người, với 3 biên chế, 4 hợp đồng, quản lý, bảo vệ gần 7.000ha rừng nguyên sinh.
Hàng ngày, những cán bộ bảo vệ rừng phải dậy từ sớm để tuần tra theo nhiệm vụ đã phân công. Trên hành trình ấy, nhiều người gặp tai nạn, lạc giữa rừng hay bị thú rừng tấn công. Ấy vậy, các anh vẫn “chân cứng, đá mềm”, bám trụ để giữ rừng pơ mu.
Dù đã bước qua tuổi 50 nhưng đôi chân anh Trần Trung Diệu vẫn thoăn thoắt. Trèo núi, vượt dốc, anh luôn dẫn đầu, mở đường cho lực lượng trẻ, người dân trong làng tuần tra.
Theo anh Diệu, hơn 22 năm nay, anh luôn cùng bà con tuần tra, canh giữ rừng pơ mu. Từng lối mòn, con suối đều được anh nắm rõ. Nhiều lần được cân nhắc chuyển lên nhiệm vụ quản lý nhưng anh đều từ chối.
“Cả thanh xuân của tôi đã gắn bó với rừng pơ mu này. Thậm chí, đêm nằm ngủ, tôi còn mơ thấy rừng pơ mu. Tôi và dân làng đã hứa sẽ cùng nhau bảo vệ cánh rừng thiêng này cho con cháu đời sau. Bởi vậy, khi tuổi còn làm được, tôi nguyện sẽ bám trụ để giữ rừng pơ mu”, anh Diệu trải lòng.

Anh Diệu kể lại, những ngày đầu vào nghề, anh cùng lực lượng tuần tra trên đỉnh pơ mu và bị lạc suốt một ngày đêm. Lúc đó, do rừng pơ mu quanh năm sương mù, tầm nhìn hạn chế nên anh bị bỏ lại phía sau. Anh gọi vang cả cánh rừng nhưng không ai trả lời.
Tối, anh tìm đến bờ suối để nghỉ ngơi. Anh lôi lương khô còn sót để ăn, rồi uống nước suối, nằm ngủ trên cây. Sáng hôm sau, anh men theo suối để tìm đường xuống. Trên hành trình ấy, anh vừa đói, khát, khắp người đều trầy xước do cắt rừng để tìm đường. Đến tận đêm, anh mới gặp được dân làng và lực lượng đi tìm mình.
Nói về gia đình, anh Diệu có vẻ lặng xuống khi thấy bản thân có lỗi. Anh có vợ và 3 người con ở huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Lấy vợ được 20 năm cũng là quãng thời gian mà anh đều bám rừng, làm nhiệm vụ.
Số lần anh về nhà trong năm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thấu hiểu công việc của chồng nên vợ con anh cũng ủng hộ. Thời gian nghỉ hè, vợ con đã vượt hàng trăm cây số vào rừng thăm chồng.

Tương tự, anh Nguyễn Thanh Cao có hơn 11 năm công tác khắp nhiều trạm trong VQG Kon Ka Kinh. Là một cán bộ trẻ, anh luôn xông xáo thực hiện những nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm.
Theo anh Cao, trong hơn 11 năm công tác, có 10 năm không đón Tết ở nhà. Những ngày lễ, Tết, mọi người được quây quần bên mâm cơm gia đình thì anh và đồng nghiệp lại bám rừng. Nhiều lúc, anh cũng thấy chạnh lòng vì đồng lương ít ỏi nhưng nhiệm vụ công việc lại khắc nghiệt, không dành thời gian cho gia đình.
“Nghề bảo vệ rừng đòi hỏi phải có sức khỏe để tuần tra nhưng chế độ đãi ngộ lại chưa xứng đáng. Những người ở lại đều tâm huyết và cùng muốn bảo vệ “kho báu” mà họ đã gìn giữ hàng chục năm nay. Tôi mong muốn cơ quan chức năng xem xét lâm nghiệp là ngành đặc thù và được hưởng chế độ tương xứng nhằm giúp anh em yên tâm công tác”, anh Cao nói.

Ngoài lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng thuộc VQG Kon Ka Kinh, cộng đồng làng Kon Kring, xã Kon Pne đã có nhiều đóng góp để bảo vệ rừng pơ mu.
Anh A Phui, thôn trưởng Kon Kring, cho biết, cộng đồng làng có 94 hộ đăng ký tham gia nhận khoán quản lý, bảo vệ hơn 1.300ha rừng của VQG Kon Ka Kinh. Bà con thành lập 5 tổ tự quản, với 10 người/tổ, để chia nhau tuần tra, không để xảy ra hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng.
Theo anh A Phui, rừng pơ mu này được dân làng xem là khu vực cấm. Ai muốn lên rừng phải được sự đồng ý của già làng, người có uy tín. Mỗi năm, bà con đều mang theo rượu ghè, heo lên làm lễ cúng và nhắc lại lời thề giữ rừng thiêng cho con cháu qua các thế hệ.

Chính quyền địa phương, lực lượng bảo vệ rừng thường tổ chức họp để đánh giá công tác nhận khoán bảo vệ rừng. Nhờ vậy, hàng chục năm nay, cánh rừng pơ mu không bị tác động, được gìn giữ nguyên hiện trạng.
Năm lên 4 tuổi, anh Đinh Klap (làng Kon Kring) đã theo bố lên rừng pơ mu làm lễ cúng. Lớn lên, anh xin vào làm nhân viên quản lý, bảo vệ rừng trong VQG Kon Ka Kinh và được phân công quản lý lâm phần có rừng pơ mu.
“Mình thấy hạnh phúc vì được tiếp nối để giữ báu vật pơ mu. Dân làng Kon Kring cũng tự hào khi có quần thể cây quý nằm ở vị trí đắc địa, hiếm ngôi làng nào ở Tây Nguyên sở hữu được”, anh Đinh Klap bộc bạch.
Trạm trưởng Nguyễn Thanh Cao cho biết, trạm thường phối hợp với chính quyền địa phương, tổ giao khoán tuần tra để đi truy quét những khu vực trọng điểm có sự phân bố của rừng pơ mu. Tuy nhiên, do lực lượng địa bàn mỏng, diện tích rộng nên nhờ có cộng đồng làng Kon Kring đã hỗ trợ rất nhiều trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Người dân trong làng cũng có ý thức trình báo khi phát hiện tình trạng xâm hại đến rừng.
“Trên lâm phần quản lý còn nhiều gỗ như huỳnh đàn, trắc, pơ mu luôn bị lâm tặc dòm ngó. Ngoài ra, một số cây pơ mu già cỗi do tác động mưa bão bị ngã rất dễ bị kẻ gian tận thu. Vì vậy, lực lượng bảo vệ rừng cùng người dân lập chốt, tuần tra không để các đối tượng lâm tặc lợi dụng khai thác”, anh Cao nhấn mạnh.

Ông Ngô Văn Thắng, Giám đốc VQG Kon Ka Kinh, cho biết, quần thể pơ mu quý hiếm nếu không tăng cường bảo vệ kịp thời rất dễ bị kẻ xấu xâm hại. Thời gian qua, Vườn luôn chỉ đạo các trạm tăng cường phối hợp với chính quyền xã, cộng đồng làng tăng cường tuần tra, bảo vệ cánh rừng pơ mu này.
Theo ông Thắng, quần thể rừng pơ mu cổ thụ với đường kính lớn như vậy rất hiếm ở Việt Nam. Do đặc điểm khí hậu ưa lạnh, mọc ở núi cao nên pơ mu cũng rất khó để gây trồng. Việc bảo vệ quần thể pơ mu ở Kon Ka Kinh sẽ giúp phát tán nguồn giống, bảo tồn được nguồn gen quý hiếm.
Mặt khác, cây pơ mu cũng có nhiều hoạt chất giúp thanh lọc không khí như thông. Đối với việc phát triển du lịch ở khu vực trên rừng pơ mu này còn gặp nhiều khó khăn do đường đi hiểm trở, địa hình núi cao, cách xa khu dân cư.

Nguồn: https://dantri.com.vn/xa-hoi/chung-loi-the-canh-giu-kho-bau-bat-kha-xam-pham-tren-dinh-kon-ka-kinh-20250310202352782.htm