Thứ bảy, Tháng mười hai 27, 2025
HomeĐời SốngCon dốc ngày niên thiếu

Con dốc ngày niên thiếu

Con dốc ngày niên thiếu - Truyện ngắn của Hòa Vinh- Ảnh 1.

Minh họa: Văn Nguyễn

Không biết tự bao giờ những người lập nên thị trấn đã biết lo cho sức khỏe của các thế hệ tương lai mà ưu tiên dành đất để có thể xây dựng một công trình thể thao. Xứ nghèo, nhiều năm trôi qua sân vận động vẫn chỉ có một khán đài thô sơ không mái che, nền tráng xi măng, và hai khung thành bằng gỗ tạp dùng cho những trận bóng đá. Mỗi khi mở trận đấu bóng chuyền hay cầu lông (hồi đó gọi là vũ cầu), các cầu thủ dựng thêm trụ và giăng lưới ở một phần sân. Năm thì mười họa, sân vận động được dùng làm địa điểm tổ chức lễ lạt, chính quyền ra lệnh xếp băng ghế cho quan khách ngồi trên khán đài và huy động người dân đi dự mít tinh hay diễu hành. Vui nhất là những ngày có đoàn hát ở Sài Gòn về. Từ buổi chiều, xe phát loa phóng thanh đi rao vở tuồng khắp thị trấn và vùng lân cận; sau giờ ăn tối, người lớn, trẻ con lũ lượt kéo đến sân vận động chen nhau mua vé sớm giành chỗ ngồi để được nhìn rõ mặt đào kép.

Bốn phía sân vận động là những cảnh sắc khác biệt. Trên triền đồi phía tây, đối xứng với hai đầu chiều dài của sân là ngôi chùa Thiên Phước và trường tiểu học, tiếp giáp rừng cây bạch đàn và những rẫy khoai lang, khoai mì xanh mướt. Đi vòng về phía nam, con đường mòn dẫn đến xóm quê tôi với chừng mươi căn nhà tranh vách đất có vườn rau và hàng cau trước sân.

Gần góc sân vận động phía đông nam là nhà thờ Công giáo sơn trắng với tháp chuông và cây thánh giá uy nghiêm. Trong không gian thanh vắng, xóm quê nằm im nghe vọng tiếng chuông chùa và tiếng chuông nhà thờ. Chùa có sư trụ trì trông nom thường xuyên, ngày sóc ngày vọng đông đảo Phật tử chiêm bái. Nhà thờ chung họ đạo với thị xã, khá vắng vẻ tín đồ; mỗi sáng chủ nhật một vị linh mục vào dâng thánh lễ, còn việc mục vụ thường ngày được giao cho một thầy xứ trẻ.

Từ nhà thờ đi về phía bắc, giáp cơ quan hành chính của thị trấn và con đường liên xã là hai dãy phố trông có vẻ đìu hiu nhưng cư dân khá giả so với dân xóm tôi. Tôi nghĩ vậy không chỉ vì nhìn các cửa hiệu, quán xá mà còn qua cách ăn mặc của các ông bà đi lễ, nhất là qua sinh hoạt của những bạn cùng lớp. Chỉ cách cái sân vận động mà đám trẻ xóm tôi như thuộc về một cộng đồng khác.

Lên năm cuối bậc tiểu học, lớp tôi được học với cô Sương ở cùng xóm. Mẹ mất sớm, cha là du kích hy sinh thời chống Pháp, cô sống với ông nội. Sau khóa đào tạo giáo sinh sư phạm, cô xin về dạy học gần nhà. Ông nội cô là cư sĩ góp công xây chùa Thiên Phước, cùng sư trụ trì tôn tạo và quản lý ngôi chùa.

Từ nhà đến trường, ngày nắng cũng như ngày mưa, học trò xóm tôi đi theo con đường chéo sân vận động, đi mãi thành một lối cỏ mòn đến con dốc dẫn lên cổng trường. Anh Cân và tôi là bạn cùng trường, thường rủ nhau đi học và chờ nhau cùng về. Mẹ tôi và mẹ anh hay giúp đỡ nhau vì cùng cảnh ngộ những người góa phụ thời chiến. Hồi chiến tranh lan rộng, cha tôi đi quân dịch, bỏ ngũ về nhà, bị bắt làm “lao công đào binh”, ngã bệnh qua đời; cha anh nghe nói cũng là lính đã mất tích từ lâu.

Hơn tôi 4 tuổi, anh Cân học hành bê bết, thường phải ở lại lớp, đến năm cuối tiểu học thì nhập vào lớp của tôi. Anh học dở nhưng giỏi bày trò chơi: ra sân đá cầu, lên đồi bắn chim, xuống sông bắt cá. Chơi thân với anh, tôi không để bị sa đà vào những trò vui mà quên mất sách bài. Anh bị mẹ mắng: “Mày coi thằng Huy đó, nó nhỏ tuổi mà siêng học, tháng nào cũng đứng nhứt, còn mày thì đi đến trường mòn đàng chết cỏ mà luôn đội sổ, lẹt đẹt mãi không có nổi cái bằng tiểu học”. Anh cười hì hì: “Con không thèm đứng nhứt như thằng Huy đâu mẹ ơi. Nhứt là nhứt cư đó”. Mẹ anh cầm cây roi quất vào mông anh một cái, anh kêu “ui da”, vừa xoa mông, vừa bỏ chạy ra vườn cho gà ăn. Nói vậy, nhưng hễ cuối tháng cô Sương cộng sổ điểm và hô vị thứ cả lớp, thì khi về tới đầu xóm, anh Cân lại réo to: “Cô Tư ơi, tháng này thằng Huy lại đứng nhứt lãnh bảng danh dự đó, bữa nay cô thưởng cho nó ăn món gì ngon ngon nghe cô”.

Thật ngược đời, mẹ anh Cân thanh tú, đoan trang bao nhiêu thì đứa con dị tướng bấy nhiêu. Anh có dáng đi lơ ngơ, môi xừng, cằm thụt, mái tóc xoăn không che vầng trán thấp. “Cha nó là quân lưu linh lạc địa”, người lớn trong xóm xầm xì khi anh đi qua ngõ. Với tôi, anh chẳng có gì đáng ngại, nhưng đám bạn học kỳ thị anh thấy rõ. Bọn con gái sợ hãi xa lánh. Bọn con trai tìm cách chọc phá, chế giễu. Chúng đặt ra một bài vè tục tĩu, đọc to lên mỗi khi gặp anh: “Thằng Cân có gân lỗ đ./ Vừa đi vừa đ./ Cái đ. đen hoen/ Cái răng ba hàm/ Cái cằm sứt mất/ Cái tật điên điên“. Những lần như thế, da mặt anh Cân tái đi, đôi mắt cụp xuống, đỏ hoe.

Trong lớp có thằng Túc con ông chủ tiệm vàng là đứa rắn mắt, thường đầu têu bày những trò nghịch ác, quậy phá bạn bè trong giờ ra chơi. Một ngày cuối đông, lá bàng đỏ rực rơi đầy sân, các bạn nữ đang thơ thẩn tìm lượm những chiếc lá đẹp nhất, bỗng một tiếng ré hãi hùng và tiếng chân nhảy cuống cuồng làm mọi người hoảng hốt. Thì ra hai bạn gái bị Túc thả sâu trên tóc. Nhìn vẻ hả hê tai quái của Túc, Cân đỏ bừng mặt, chạy tới xách tai nó: “Lại bắt sâu cho Hoa và Liên ngay, tao vặn rụng tai mày bây giờ!”.

Bị tẽn tò trước đám bạn gái, Túc hận lắm, tìm dịp trả thù. Chiều hôm sau, khi chúng tôi vừa đi xuống dốc đồi băng qua sân vận động về nhà, nó phục sẵn bên góc khán đài ném đá sỏi vào người Cân, một viên trúng trán anh làm sưng một cục u. Rồi nó vừa co giò chạy, vừa ngoái lại trêu tức: “Nhứt voi một ngà, nhì người ta một mắt. Nay mày là voi một ngà, mai tao sẽ cho mày thành người một mắt”. Cân chảy nước mắt vì đau và tức, gầm lên một tiếng, đuổi theo Túc; tôi kịp kéo anh đứng lại, dỗ anh về nhà cho mẹ tôi xoa dầu lên chỗ sưng.

Như một khối đá xù xì lạc lõng giữa bạn bè, Cân là người cục tính, dễ nổi khùng nhưng cũng mau kiềm chế. Tôi để ý mỗi sáng chủ nhật, anh là con người khác, áo quần tươm tất, dáng vẻ thành kính, thong dong theo mẹ đến nhà thờ. Cái vẻ thanh thoát khác thường ấy nơi Cân làm tôi ngạc nhiên và tò mò. Tôi hỏi anh: “Sáng chủ nhật ở nhà thờ, anh làm gì mà siêng đi vậy?”. Cân cười tủm tỉm: “Muốn biết thì theo tao!”. Tôi rụt vai: “Em lạ, đến đó có sao không?”. Mặt anh rạng rỡ hẳn lên: “Mày đừng sợ, cha xứ thương tao lắm, mày là bạn tao thì cha cũng thương mày. Cứ để ý tao làm sao mày làm vậy, không biết đọc kinh hay hát thì cứ mấp máy môi”.

Thế là một sáng chủ nhật tôi lén mẹ theo anh Cân sang nhà thờ. Bước vào không gian ấy, tôi biết tương giao giữa anh và tôi hoán đổi. Lúc ở trường, Cân gần như tựa vào tôi; ở đây, anh như cá gặp nước, ung dung, tự chủ, bình an. Tôi quỳ bên Cân, lòng hồi hộp, người lóng cóng, thỉnh thoảng liếc ngang thấy khuôn mặt anh dễ thương chi lạ. Không hiểu những lời cha giảng, tôi chỉ mê mải nghe thánh ca và lặp lại câu Aleluia… Aleluia… rồi giật mình khi anh thúc nhẹ cùi chỏ vào hông lúc mọi người lục tục đứng dậy sắp hàng rước lễ. Thấy anh cung kính đưa tay ra, tôi cũng ngửa lòng bàn tay để cha đặt miếng bánh vào. Bánh mỏng, vị nhạt tan ngay trong miệng cùng một cảm giác hư thực thiêng liêng khó tả. Chúng tôi rời nhà thờ sau khi đáp lại lời chúc của cha: “Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an”.

Trưa ấy, nghe chuyện, mẹ tôi trầm ngâm: “Nhà mình theo đạo Phật, lễ Chúa không làm đúng nghi thức thì mang tội con ạ. Con không phải giáo dân mà lên nhận bánh thánh là không tốt nghe con”. Từ hôm đó tôi không dám bước chân vào nhà thờ dù anh Cân năm lần bảy lượt rủ rê.

Một hôm, nhân lúc cô Sương bảo qua nhà cô cắt giấy trang trí lớp học, tôi kể cô nghe chuyện Túc thường gây sự với Cân. Cô bảo: “Từ nay hai đứa em cùng đi với cô đến trường, khi về thì chờ cô cùng về nghe”. Nghe lời cô Sương, anh Cân và tôi không đi học theo đường tắt sân vận động nữa, mà vòng qua lối đi đầu xóm ngang nhà cô, rồi cùng cô bước những bậc thang đá lên gần cổng chùa và rẽ sang con đường dọc triền đồi về phía cổng trường.

Trong lớp, anh Cân cao nhất nên được xếp ngồi bàn cuối, tôi là “thần hộ vệ” ngồi bên cạnh sẵn lòng giúp đỡ theo lời gửi gắm của mẹ anh và lời dặn dò của cô Sương. Cái món học thuộc lòng thì Cân không ngại, ở nhà lúc nào rảnh là anh ê a như tụng kinh. Còn làm toán và viết chính tả anh luôn bị điểm thấp. Có lần, trong giờ chính tả, tôi liếc thấy bài anh nhiều lỗi quá, chắc phải ăn trứng ngỗng thôi, tôi đá vào chân anh ra hiệu rồi he hé bài mình cho anh xem, ai ngờ anh trừng mắt với tôi, còn giơ nắm tay ra dọa.

Nhiều năm về sau, tôi vẫn nhớ mãi những buổi chiều tan trường, học trò đổ ra con dốc trước cổng, đi về cánh bắc, cánh đông qua ngả sân vận động, còn ba cô trò tôi men theo con đường ven đồi bạch đàn lộng gió. Nhìn lên nền trời xanh, hai đứa học trò lặng lẽ đi theo chiếc áo dài như theo chân một thánh nữ. Thỉnh thoảng cô Sương dừng lại hái một nhành hoa mua bỏ vào túi vải hay ghé vào chùa thăm sư ông, để anh Cân và tôi về trên lối ngõ bình yên của xóm nghèo.

Một lần tôi hỏi mẹ: “Con để ý thấy cô Sương chẳng khi nào đi ngang qua sân vận động, cũng không đi xem hát và dự cổ vũ những trận đấu thể thao, sao lạ vậy mẹ?”. Mẹ nhìn tôi lưỡng lự: “Lớn lên con sẽ hiểu”. Mãi sau này, lên trung học, tôi mới biết ngay chỗ dựng khán đài, ngày trước người ta đã bắn chết mấy người du kích bị bắt giam, trong đó có cha của cô Sương. Và một trong những kẻ thi hành lệnh xử bắn là cha của anh Cân. Sự kiện bi thảm ấy được ủ kín trong lòng bà con làng xóm, như một vết thương do thời cuộc không thể tránh.

Người sao tên vậy, cô Sương là giọt sương long lanh soi chiếu tâm hồn chúng tôi. Ngoài những lúc giảng bài, cô thường ít nói, chỉ nở nụ cười đủ làm ấm lòng những đứa học trò thơ dại. Những tưởng từ đó đến cuối năm học, anh Cân và tôi sẽ yên ổn trên đường đến trường. Vậy mà trời xui đất khiến, một sự việc đáng tiếc lại xảy ra.

Năm đó cả anh Cân và tôi đều chưa biết đi xe đạp, chỉ vì nhà không có xe. Nhìn đám bạn đạp xe chạy vù vù ngoài đường, chúng tôi tủi thân mà không dám nói. Mẹ Cân biết ý, nhờ cậu anh mua một chiếc xe đạp sườn ngang vừa với chiều cao của anh. Bà bảo, “hai anh em bay ngày chủ nhật ra sân vận động mà tập”. Tôi náo nức trông đợi ngày vui. Dậy sớm, ăn vội mấy củ khoai luộc, tôi liền qua nhà anh, quên mất mẹ con anh đang dự lễ trong nhà thờ. Lúc này linh mục vừa giảng xong, mọi người đang đọc kinh Tin kính, tôi tha thẩn bên ngoài, kiên nhẫn chờ xong buổi lễ.

Sáng chủ nhật sân vận động đông người tập thể dục hơn ngày thường. Chúng tôi chọn một góc sân để tập. Hóa ra tập xe đạp dễ quá chừng. Anh Cân ngồi trên yên đạp, tôi chạy bộ theo vịn hờ yên sau để anh vững lòng đạp tới. Chỉ vài lần nghiêng ngả là xe chạy bon bon. Đến lượt tôi cũng vậy, anh Cân bám theo sau la lớn: “Tới luôn, tới luôn bác tài!”.

Niềm vui sướng của chúng tôi chưa trọn thì bọn thằng Túc cũng đi xe đạp ra sân giăng lưới đánh vũ cầu. Nó chiếm chỗ chúng tôi đang tập, hất hàm: “Đây là chỗ dành riêng cho bọn tao, hai đứa bây đi chỗ khác chơi!”. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, chúng tôi biết mình yếu thế, đành rút lui.

Bỗng tôi nghĩ ra cách kéo dài cuộc vui. Tôi nói anh Cân dắt xe lên cổng trường, ngồi trên yên thả dài xuống dốc, không cần đạp mà xe vẫn chạy, rồi lại quay xe đạp lên dốc và cứ thế luân phiên nhau tiếp tục trò chơi.

Thấy vậy, thằng Túc như ngứa mắt, nó bỏ dở trận vũ cầu cho mấy đứa bạn, dắt xe lên dốc bám theo chúng tôi. Chờ đến phiên anh Cân thả xe lao dốc, nó lao theo và ép anh sát vào mép đường. Mới tập đi xe, anh Cân không vững tay lái, loạng choạng rồi cả người và xe ngã xuống cái hố sâu bên dốc. Túc khoái chí cười khanh khách, còn tôi thì run lẩy bẩy vì hoảng hốt và tức giận. Không chịu nhịn nữa, anh Cân ráng ngồi dậy, nhấc xe lên đưa cho tôi giữ, đuổi theo Túc nắm bâu áo nó đánh vào vai thật mạnh làm nó ngã nhào. Nó lồm cồm bò dậy, bị anh bồi thêm một cú đá vào mông khiến nó lăn quay. Nhóm bạn nó kinh hãi đứng ngó không dám lao vào can. Tôi vội vàng đẩy anh lên xe đạp về nhà, mong tránh chuyện chẳng lành.

Hôm sau là thứ hai, học sinh các lớp sắp hàng tập hợp dưới cờ. Anh Cân không bỏ học dù mặt mũi tay chân còn xây xát do cú ngã hôm trước. Khi chúng tôi chưa kịp đứng vào hàng, thằng Túc dẫn ba nó vào trường, chỉ cho ông ta thấy anh Cân, ông nhào đến tát tai, đấm đá anh túi bụi. Đau đớn và xấu hổ, anh khóc thét lên, ông ta vẫn không buông tha. Từ phòng giáo viên, cô Sương chạy ra la lớn kêu cứu. Ông ta sừng sộ: “Cô bao che cho thằng khùng hà hiếp con tôi, nhà trường không trị được nó thì để tôi trị”. Đúng lúc đó thầy hiệu trưởng xuất hiện, thầy nhìn thẳng vào mặt ông ta: “Ông sai rồi, ông là người lớn mà đánh đứa trẻ là sai rồi. Ông về ngay, nếu không tôi sẽ nhờ chính quyền và luật pháp can thiệp”. Ông ta bỏ về, vẻ mặt vẫn còn hậm hực.

Trong buổi sinh hoạt đầu tuần hôm đó, thầy hiệu trưởng nói về tình bạn, tình thương yêu, lòng trắc ẩn. Thầy bảo: “Trong chuyện này em Cân có lỗi, em Túc cũng có lỗi. Túc đã nhiều lần gây sự với Cân, là nguyên cớ gây ra cuộc ẩu đả. Hai em phải lên đây xin lỗi các thầy cô và các bạn”. Anh Cân vòng tay mếu máo: “Em xin lỗi các thầy cô và các bạn, em đã sai vì quá nóng giận”. Còn Túc thì cúi gầm mặt, nói lí nhí trong miệng không nghe ra tiếng gì.

Mấy ngày sau đó mọi việc diễn ra bình thường, đến chiều chủ nhật anh Cân rủ tôi sang thăm cô Sương. Anh xin phép cô cho anh nghỉ học vì không muốn làm phiền đến cô và các bạn. Mẹ anh sẽ đến trường thưa chuyện với cô và thầy hiệu trưởng. Cô Sương và tôi đều bất ngờ, buồn đến lặng người, biết rằng mọi lời khuyên giải lúc này đều vô nghĩa.

Thật kỳ diệu, từ khi nghỉ học, anh Cân trở nên điềm tĩnh, hiền hòa. Anh yên phận một người làm vườn trồng rau, nuôi gà mát tay, hằng ngày dành thời gian phụ giúp thầy xứ lau dọn nhà thờ và chăm sóc cây cảnh. Tôi được đi học tiếp, sống ở nhiều nơi, lâu ngày về thăm quê, lại ngồi với anh trước hiên nhà nhìn lên ngôi trường và con dốc phía xa xa. Trong câu chuyện, anh chẳng khi nào tỏ ra oán giận Túc – giờ là một nhà thầu ăn nên làm ra nhờ gia thế và thời thế. “Quê mình rồi đây sẽ thay đổi nhiều đó Huy. Cái sân vận động in dấu bao kỷ niệm của tụi mình sắp thành khu thương mại. Nghe đâu thằng Túc đã trúng thầu vụ đó”. Cân nói và cười nhẹ, giọng thật bình thản, như anh đang nói về mùa màng, khoai sắn và những đổi thay của thời tiết.

Nguồn: https://thanhnien.vn/con-doc-ngay-nien-thieu-truyen-ngan-cua-hoa-vinh-18525112217292293.htm

ThanhNien Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay