Luật BHXH 2024 quy định trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận giao kết hợp đồng từ 1 tháng trở lên bằng tên gọi khác với “hợp đồng lao động” nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Khi áp dụng quy định này vào thực tiễn, một số doanh nghiệp vẫn bối rối khi xác định việc có phải tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động hay không.

Đại diện một công ty xây dựng tại TPHCM chia sẻ doanh nghiệp có thuê một đội khoán khoảng 5 người thợ xây dựng và ký hợp đồng thuê khoán với người đại diện là đội trưởng. Công ty không theo dõi chấm công, tính lương từng người lao động, chỉ thanh toán tiền dựa vào khối lượng công việc hoàn thành của đội. Bên cạnh đó, công trình xây dựng thường kéo dài khoảng 5-7 tháng, nhưng cứ khoảng 2 tháng công trình lại dừng thi công để thực hiện các khâu việc khác. Khi đó, đội thợ khoán sẽ chuyển đến nơi khác làm việc, lúc nào công ty yêu cầu họ sẽ quay lại làm tiếp.
“Chúng tôi băn khoăn có phải đóng BHXH bắt buộc cho người lao động ở đội khoán này không? Nếu phải đóng thì mức đóng tối thiểu là bao nhiêu vì công ty chỉ ký hợp đồng khoán việc chứ không ký hợp đồng lao động? Một số lao động trong đội khoán này đã tham gia bảo hiểm tự nguyện rồi thì công ty có phải tham gia BHXH bắt buộc cho họ nữa không? Thởi gian gián đoạn công việc công ty phải xử lý thế nào cho đúng quy định?”- Đại diện công ty đặt câu hỏi.
Phản hồi thắc mắc trên, BHXH Việt Nam cho hay theo quy định tại của Luật BHXH 2024 thì người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên, kể cả trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; Người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Như vậy, trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên từ đủ 1 tháng trở lên thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Trường hợp người đang tham gia BHXH tự nguyện mà có thỏa thuận lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì dừng đóng BHXH tự nguyện, chuyển sang đóng BHXH bắt buộc tại công ty. Thời gian tham gia BHXH tự nguyện trước đó sẽ được bảo lưu, cộng dồn với thời gian tham gia BHXH bắt buộc sau này để làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH.
Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị định 158/2025/NĐ-CP. Cụ thể, mức lương ghi trong hợp đồng lao động là mức lương tính theo thời gian của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng (theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Lao động). Đối với người lao động hưởng lương theo sản phẩm hoặc lương khoán thì ghi mức lương tính theo thời gian để xác định đơn giá sản phẩm hoặc lương khoán theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 3 của Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBXH.
Trong thời gian gián đoạn công việc, nếu người lao động không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không phải đóng BHXH tháng đó, trừ trường hợp người sử dụng lao động và người lao động có thỏa thuận về việc có đóng BHXH cho người lao động tháng đó với căn cứ đóng bằng mức lương đóng BHXH tháng gần nhất.
Nguồn: https://nld.com.vn/thue-khoan-khong-ky-hop-dong-lao-dong-co-phai-dong-bhxh-cho-nguoi-lao-dong-196251208091743216.htm

