
Khối tư nhân được kỳ vọng sẽ có nhiều đóng góp vào bức tranh hạ tầng của TP.HCM mới – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Việc đồng loạt khởi công, khánh thành 234 dự án hạ tầng trên cả nước với tổng vốn khoảng 3,4 triệu tỉ đồng không chỉ phản ánh quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ, mà còn phát đi thông điệp: dùng đầu tư công để dẫn dắt, mở đường và tạo niềm tin, từ đó kéo theo đầu tư của khu vực tư nhân.

Nhận định này được chuyên gia kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn – Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright – đưa ra về hàng loạt dự án khởi công, khánh thành trong ngày hôm qua 19-12.
Trong bối cảnh tăng trưởng cần cú hích mới, đợt đầu tư này đặt ra kỳ vọng lớn về tốc độ, hiệu quả và năng lực thực thi của doanh nghiệp, coi tư nhân là đối tác trung tâm trong kiến tạo động lực phát triển trung và dài hạn.
* Theo ông, quy mô của loạt dự án này phản ánh điều gì về quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư công của Chính phủ?
– Trước hết, đây là một thông điệp rất rõ về quyết tâm chính trị trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Loạt dự án này có tổng vốn tương đương 26,5% GDP năm 2025 phản ánh lựa chọn dứt khoát là phải đẩy nhanh đầu tư phát triển, coi đầu tư công và hạ tầng là một trong những trụ cột quan trọng để giữ nhịp tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế còn nhiều bất định.
Đầu tư công vẫn là công cụ mà Nhà nước có thể chủ động sử dụng để kích thích tổng cầu, tạo việc làm và duy trì động lực cho nền kinh tế trong năm 2026 cũng như những năm tiếp theo.
Một điểm đáng chú ý khác là cơ cấu nguồn vốn. Phần lớn tổng mức đầu tư không chỉ đến từ ngân sách nhà nước mà còn huy động từ các nguồn lực ngoài nhà nước, phản ánh chủ trương không làm thay thị trường mà dùng đầu tư công để dẫn dắt, mở đường và tạo niềm tin, từ đó kéo theo đầu tư của khu vực tư nhân.
* Đầu tư hạ tầng quy mô lớn sẽ tác động như thế nào tới tăng trưởng, việc làm và sức bật của nền kinh tế trong trung và dài hạn?
– Làn sóng đầu tư hạ tầng quy mô lớn thường tạo tác động kích thích và năng suất. Tác động kích thích tức là tác động ngắn hạn lên tăng trưởng và việc làm. Khi dự án được triển khai, nhu cầu vật liệu, xây lắp, vận tải, dịch vụ kỹ thuật và hàng loạt mắt xích cung ứng tăng lên, từ đó tạo thêm việc làm và thu nhập, kéo theo tiêu dùng xã hội.
Nhiều nghiên cứu quốc tế cho thấy chi đầu tư công thường có hệ số tác động lên sản lượng cao hơn chi thường xuyên, và có xu hướng kéo thêm đầu tư tư nhân đi cùng nếu dự án được lựa chọn đúng và triển khai tốt.
Tác động thứ hai là tác động về mặt năng suất, tức là tác động trung và dài hạn, khi hạ tầng làm thay đổi năng lực sản xuất của nền kinh tế. Đường sá, cảng biển, sân bay, năng lượng, hạ tầng đô thị, hạ tầng số… được nâng cấp đồng bộ sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển và thời gian giao hàng, giảm rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng, mở rộng thị trường, và quan trọng nhất là nâng cao năng suất và sức cạnh tranh quốc gia.
Về bản chất, hạ tầng tốt làm cho cùng một nỗ lực của doanh nghiệp tạo ra nhiều giá trị hơn.
Tuy vậy, nếu hỏi hạ tầng có tạo sức bật hay không, câu trả lời phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn dự án thế nào và chất lượng triển khai ra sao. Nếu dự án chậm tiến độ, đội vốn, hoặc làm xong mà kết nối không thông, các nút thắt thể chế không được tháo gỡ… thì tác động sẽ giảm đi.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn
* Nhìn lại thời gian qua, từng có các dự án không đạt được tinh thần “tăng tốc” như kỳ vọng, theo ông, đâu là nguyên nhân cốt lõi?
– Việc các dự án hạ tầng chậm tiến độ, đội vốn không phải là câu chuyện cá biệt và nguyên nhân quan trọng không phải do thiếu tiền hay thiếu quyết tâm mà do cách tổ chức thực hiện.
Như chúng ta biết, nhiều dự án bị kéo dài vì quy định quá rườm rà, phức tạp, tưởng là để dễ quản lý nhưng thực tế là đang trói hãm nguồn lực. Quy trình chuẩn bị quá lâu, thủ tục chồng chéo, mỗi khâu liên quan đến nhiều cơ quan nhưng lại không có một chủ thể nào thực sự chịu trách nhiệm đến cùng, dẫn đến tinh thần trách nhiệm dễ bị bào mòn trong quá trình thực thi.
Bên cạnh đó, tư duy quản lý dự án vẫn nặng về kiểm soát đầu vào hơn là quản lý theo kết quả đầu ra. Nhiều quy định được thiết kế quá đặt nặng việc tuân thủ hình thức về giấy tờ, hồ sơ và quy trình nhưng lại ít chú trọng đến tiến độ, chi phí và hiệu quả thực tế hay không.
Ngoài ra, cơ chế sợ sai, sợ trách nhiệm cũng khiến nhiều cán bộ chọn cách làm an toàn thay vì chủ động tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ. Trong bối cảnh như vậy, dù chủ trương có mạnh đến đâu, khi đi vào thực thi vẫn dễ bị vướng mắc và tắc nghẽn.
Chính vì thế, yêu cầu trao quyền nhiều hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, là hoàn toàn xác đáng. Điều này phù hợp với tinh thần của nghị quyết 68 của Bộ Chính trị.
* Nhưng việc “trao quyền” cho tư nhân trong các dự án hạ tầng nên được hiểu và thực hiện như thế nào cho đúng và đủ?
– Trao quyền ở đây không nên hiểu đơn giản là buông lỏng quản lý hay giao dự án cho doanh nghiệp tự xoay xở. Trao quyền đúng nghĩa là giao cho doanh nghiệp quyền chủ động thực sự trong thiết kế, tổ chức thi công, lựa chọn công nghệ và quản lý tiến độ, trên cơ sở những mục tiêu và tiêu chuẩn đầu ra được Nhà nước xác định rõ ràng ngay từ đầu.
Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào cách làm mà tập trung vào việc đặt mục tiêu, giám sát kết quả và xử lý nghiêm các vi phạm.
Trao quyền cũng phải đi kèm với ràng buộc trách nhiệm giải trình rõ ràng. Khi doanh nghiệp được trao quyền nhiều hơn, họ phải chịu trách nhiệm đầy đủ về tiến độ, chi phí và chất lượng công trình. Nếu làm tốt, họ được hưởng lợi ích xứng đáng; còn nếu làm chậm, làm kém thì phải chịu chế tài tương ứng.

Động thổ dự án tuyến đường sắt Bến Thành – Cần Giờ vào sáng 19-12 – Ảnh: CHÂU TUẤN
* Thông điệp quan trọng nhất mà Nhà nước đang gửi tới doanh nghiệp qua đợt đầu tư hạ tầng quy mô lớn này là gì?
– Từ góc độ chính sách, tôi cho rằng thông điệp quan trọng nhất mà Nhà nước đang gửi tới doanh nghiệp qua đợt đầu tư hạ tầng quy mô lớn lần này là Nhà nước đã sẵn sàng chuyển từ vai trò làm chính sang vai trò kiến tạo và dẫn dắt.
Khi Nhà nước chấp nhận bỏ ra nguồn lực rất lớn, đồng thời mở rộng không gian cho tư nhân tham gia sâu hơn, điều đó hàm ý rằng hạ tầng không còn là lĩnh vực khép kín của khu vực công mà là không gian hợp tác dài hạn giữa Nhà nước và tư nhân trên cơ sở lợi ích chung.
Thông điệp thứ hai, cũng rất quan trọng, là yêu cầu về tốc độ và hiệu quả. Việc khởi công và triển khai đồng loạt nhiều dự án cho thấy Nhà nước kỳ vọng các dự án phải được triển khai nhanh, làm thật và sớm phát huy tác dụng đối với tăng trưởng.
Nói cách khác, Nhà nước đang phát tín hiệu rằng thời gian là rất gấp gáp và những doanh nghiệp tham gia sẽ phải có năng lực tổ chức, tài chính và quản trị đủ mạnh để theo kịp yêu cầu đó.
* Ngược lại, doanh nghiệp cần làm gì để xứng đáng với sự tin tưởng và trao quyền của Nhà nước?
– Ở chiều ngược lại, để xứng đáng với sự tin tưởng của Nhà nước, doanh nghiệp trước hết cần thay đổi cách tiếp cận. Tham gia dự án hạ tầng không nên được nhìn như một cơ hội ngắn hạn để giành dự án hay tối đa hóa lợi ích trước mắt mà cần xem đó như là cam kết đầu tư dài hạn gắn với uy tín và năng lực của chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải chứng minh rằng khi được trao quyền nhiều hơn, họ phải chủ động chịu trách nhiệm toàn diện về tiến độ, chất lượng và hiệu quả, thay vì trông chờ vào sự hỗ trợ và chỉ dẫn của Nhà nước.
Quan trọng hơn, doanh nghiệp cần chứng minh rằng họ phải có khả năng quản trị rủi ro và minh bạch trong triển khai dự án. Hạ tầng là lĩnh vực sử dụng nguồn lực xã hội lớn và có tác động lâu dài, nên việc tuân thủ chuẩn mực đầu tư, tài chính và đạo đức kinh doanh là nền tảng để xây dựng niềm tin với Nhà nước và đối tác.
Hạ tầng tốt sẽ thay đổi cấu trúc tăng trưởng của Việt Nam
Về cấu trúc tăng trưởng của Việt Nam có thể đổi theo hướng nào trong 5 – 10 năm tới nếu tận dụng tốt đợt đầu tư này, tôi nghĩ có ba chuyển dịch lớn có thể hình dung được.
1. Chuyển từ tăng trưởng dựa nhiều vào mở rộng vốn và lao động sang tăng trưởng dựa nhiều hơn vào năng suất, vì hạ tầng tốt giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, đồng thời thúc đẩy tích tụ công nghệ và quản trị khi tham gia chuỗi cung ứng.
2. Chuyển dịch không gian tăng trưởng theo hướng hình thành các hành lang kinh tế gắn với cảng biển, sân bay, đường sắt, cao tốc và các cụm liên kết ngành (clusters), từ đó nâng cao chất lượng đô thị hóa và phân bổ lại hoạt động sản xuất dựa trên lợi thế so sánh động.
3. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng cao tỉ trọng đóng góp của các ngành giá trị gia tăng cao thay vì tiếp tục dựa vào các ngành công nghiệp gia công truyền thống và thâm dụng lao động.
* Đại biểu PHAN ĐỨC HIẾU (thành viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính):
Triển khai đúng tiến độ, tăng hiệu quả sử dụng vốn

Việc khánh thành, khởi công hàng loạt dự án là hành động cụ thể nhằm tạo động lực, truyền cảm hứng và khí thế mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai chữ số trong những năm tới.
Trong số này, nhiều dự án tạo hạ tầng mang tính chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như tạo thuận lợi cho hoạt động sinh hoạt của nhân dân.
Đặc biệt hơn nữa là các dự án công nghiệp, năng lượng rất có ý nghĩa, thể hiện kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách lớn về phát triển khoa học công nghiệp, y tế, giáo dục.
Cơ cấu nguồn vốn của các dự án cũng phần nào cho thấy khu vực ngoài nhà nước tham gia ngày càng sâu vào các hoạt động kinh tế – xã hội đúng như chủ trương và mong muốn của Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Việc huy động được khối lượng vốn xã hội hóa rất lớn trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn cho thấy niềm tin của thị trường và doanh nghiệp đối với triển vọng phát triển của nền kinh tế. So sánh quy mô vốn với số lượng dự án đã cho thấy rõ nét đầu tư nhà nước không dàn trải mà tập trung vào dự án quan trọng, lớn và có nhiều ý nghĩa.
Cuối cùng, mong muốn của tôi là các dự án được triển khai một cách khẩn trương, nhanh chóng và chất lượng.
Từ đó góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu kép từ các công trình này là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và sớm có hạ tầng để phục vụ ngay được hoạt động kinh tế – xã hội, góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng trong thời gian tới.
* Đại biểu BÙI HOÀI SƠN (Hà Nội):
Lời cam kết mạnh mẽ cho tương lai

Chuỗi khởi công, khánh thành các dự án lớn trong năm 2025 – từ sự kiện 19-8 với 250 dự án tại 34 tỉnh thành, đến sự kiện 19-12 với 234 dự án – cho thấy một nhịp điệu phát triển mới của đất nước. Đó là khẩn trương nhưng bài bản, quyết liệt nhưng có trọng tâm, tăng tốc nhưng không rời khỏi quỹ đạo bền vững.
Những công trình được khởi động hôm nay chính là lời cam kết mạnh mẽ cho tương lai: một Việt Nam phát triển dựa trên nền tảng thể chế vững chắc, sự đồng thuận chính trị cao và tinh thần hành động thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Ở chiều sâu, ý nghĩa lớn nhất của sự kiện 19-12 sẽ khơi dậy và củng cố niềm tin rằng kỷ nguyên mới không phải là một khái niệm trừu tượng mà đang hiện hữu trong từng dự án, từng công trình, từng quyết sách được triển khai đồng bộ để đất nước có đủ nền tảng và khí thế để đi xa hơn, vững vàng hơn trên con đường phát triển phồn vinh và hạnh phúc.
Chẳng hạn, Khu đô thị thể thao Olympic ở Hà Nội không chỉ là lựa chọn về mặt tổ chức, mà còn là một thông điệp phát triển. Đó là tầm nhìn về một mô hình tăng trưởng mới, trong đó hạ tầng hiện đại, thể thao, văn hóa, không gian sống và kinh tế đô thị được tích hợp hài hòa, hướng tới con người – chủ thể và mục tiêu cao nhất của phát triển.
Hình ảnh ấy rất phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới: phát triển không chỉ đo bằng tốc độ, mà bằng chất lượng sống, bằng năng lực cạnh tranh dài hạn và sức mạnh mềm của quốc gia.
Trong mạch đó, yêu cầu triển khai theo phương châm “6 rõ” của Thủ tướng Phạm Minh Chính cho thấy một tinh thần điều hành nhất quán: nói đi đôi với làm, chủ trương gắn chặt với tổ chức thực hiện, và trách nhiệm được xác định đến từng khâu, từng con người, từng sản phẩm cụ thể.
Đây chính là yêu cầu cốt lõi của quản trị quốc gia trong kỷ nguyên mới, nơi hiệu quả thực chất là thước đo cao nhất của năng lực lãnh đạo và điều hành.
Đọc tiếp
Về trang Chủ đề
Nguồn: https://tuoitre.vn/dong-luc-moi-va-thong-diep-cho-kinh-te-tu-nhan-2025122008454953.htm

