Khu di tích và danh thắng Yên Tử (phường Yên Tử, Quảng Ninh) vừa chính thức đón nhận Bằng ghi danh của UNESCO, công nhận Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản Văn hóa Thế giới.
Đây không chỉ là niềm tự hào của 3 địa phương Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng, mà còn là sự ghi nhận quốc tế đối với một không gian văn hóa, lịch sử và tâm linh đặc sắc, mang đậm bản sắc Việt Nam.
Quần thể di sản liên tỉnh này gồm 12 thành phần có mối liên kết hữu cơ, trong đó Khu di tích và danh thắng Yên Tử giữ vai trò trung tâm.
Nơi đây gắn liền với sự nghiệp tu hành, thành đạo của Phật hoàng Trần Nhân Tông và sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – dòng Phật giáo mang tinh thần nhập thế sâu sắc, hòa quyện giữa đạo và đời, giữa tu hành và trách nhiệm với quốc gia, dân tộc.
Khu vực chùa Đồng, Yên Tử (Ảnh: Quân Đỗ).
Hồ sơ đề cử Di sản Văn hóa Thế giới được 3 địa phương chuẩn bị công phu trong suốt 13 năm, với hàng nghìn trang tài liệu khoa học, cùng nhiều hội thảo, tọa đàm trong nước và quốc tế.
Kết quả ghi danh là minh chứng cho một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, kiên trì nhận diện giá trị và cam kết bảo vệ di sản lâu dài.
Theo TS Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, việc UNESCO ghi danh Quần thể Di tích Danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc trước hết là sự ghi nhận giá trị nổi bật toàn cầu của di sản.
Đồng thời, đây cũng là sự đánh giá cao đối với nỗ lực của Việt Nam nhiều thập kỷ qua trong việc nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và triển khai các chương trình bảo vệ di sản một cách bài bản.
Theo TS Lê Thị Minh Lý, Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ các công ước quốc tế và chủ trương phát triển công nghiệp văn hóa. Việc khai thác giá trị di sản không phải là điều mới mẻ. Thực tế, nhiều mô hình sáng tạo dựa trên nền tảng di sản đã được triển khai và mang lại những kết quả tích cực.
Nhiều chuyên gia đánh giá, việc việc Yên Tử ra mắt linh vật là một sáng kiến tuyệt vời, đặc biệt ngay trong năm khu di tích này trở thành di sản thế giới (Ảnh: T. Mỹ).
Bà Minh Lý đánh giá cao ý tưởng xây dựng linh vật voi linh sơn và bộ quà tặng chính thức của Yên Tử.
Từ hoa văn, biểu tượng Phật giáo, bảng màu đặc trưng đến hệ thống hình tượng “vật thiêng” gắn với truyền thuyết và quan niệm dân gian, các sản phẩm không chỉ hướng đến thẩm mỹ, mà còn mang giá trị giáo dục văn hóa, đặc biệt với giới trẻ.
Tuy nhiên, bà cũng nhấn mạnh, sáng tạo phải đi kèm với nghiên cứu và cơ chế tham vấn chuyên gia. Trong bối cảnh công nghệ, đặc biệt là khi AI ngày càng tham gia sâu vào quá trình sáng tạo, việc thiết lập các nguyên tắc thẩm định là điều cần thiết để tránh sai lệch, đơn giản hóa hay thương mại hóa quá mức di sản.
Trong câu chuyện di sản, cộng đồng luôn là từ khóa cốt lõi. Di sản do cộng đồng sáng tạo, thuộc về cộng đồng và chỉ thực sự sống khi cộng đồng tham gia bảo vệ, khai thác và tái tạo giá trị.
Theo TS Lê Thị Minh Lý, Yên Tử là một trường hợp đáng chú ý khi đã tổ chức tốt việc lôi cuốn cộng đồng tham gia, tạo sự cân bằng hài hòa giữa lợi ích doanh nghiệp, lợi ích cộng đồng và trách nhiệm bảo tồn.
Bà Lê Tuyết Mai, Trưởng ban dự án Tùng Lâm – Yên Tử tặng linh vật voi linh sơn cho ông Jonathan Baker (Ảnh: H. H).
Từ góc nhìn quốc tế, ông Jonathan Baker, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam, đánh giá, Yên Tử là một địa danh mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa đặc biệt, có tiềm năng lớn trong bức tranh kinh tế di sản của Việt Nam.
“Việc được công nhận là di sản thế giới sẽ mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp và cộng đồng địa phương trong quảng bá văn hóa, du lịch. UNESCO sẵn sàng đồng hành để đảm bảo Yên Tử phát triển theo hướng bền vững, mang lại lợi ích cho cả hiện tại và tương lai”, ông Jonathan Baker khẳng định.
Theo ông, các ngành công nghiệp sáng tạo có vai trò quan trọng trong việc giúp di sản không chỉ được bảo tồn, mà còn được thấu hiểu sâu sắc hơn thông qua sự tương tác, truyền thông và kết nối với văn hóa đương đại.
Theo ông Jonathan Baker, việc Yên Tử ra mắt linh vật là một sáng kiến tuyệt vời, đặc biệt ngay trong năm khu di tích này trở thành di sản thế giới.
“Đây là cách quảng bá tích cực đến thế hệ trẻ bằng cách giao tiếp theo ngôn ngữ họ hiểu và yêu thích. Việc phát triển các sản phẩm chạm đến giới trẻ sẽ thu hút họ đến với Yên Tử để hiểu về tầm quan trọng của di tích đối với lịch sử và tôn giáo của Việt Nam.
Tôi khuyến khích các bạn tiếp tục sáng tạo với những ý tưởng tuyệt vời này để giúp mọi người trân trọng và trở thành một phần của di sản văn hóa Yên Tử”, đại diện UNESCO bày tỏ.
Theo bà Lê Tuyết Mai, Trưởng ban dự án Tùng Lâm – Yên Tử, quản trị di sản ở Việt Nam đang bước sang một giai đoạn mới và Yên Tử là một minh chứng thuyết phục cho sự chuyển dịch đó.
Theo các chuyên gia, điều quan trọng nhất vẫn là tìm được điểm cân bằng giữa bảo tồn và phát triển bền vững đối với các di sản (Ảnh: H. T).
Bàn về câu chuyện phát huy giá trị quần thể di sản sau khi được UNESCO vinh danh, bà Lê Tuyết Mai đặc biệt chú trọng đến việc quản trị di sản bằng tư duy hiện đại mà không đánh mất chiều sâu tinh thần.
Theo bà Mai, di sản không thể “đóng khung” trong bảo tồn thụ động, mà cần được nhìn nhận như một hệ sinh thái sống, nơi bảo tồn, giáo dục, trải nghiệm và phát triển kinh tế văn hóa cùng tồn tại trong thế cân bằng cần thiết.
Đáng chú ý, tư duy quản trị sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực di sản đang dần được xác lập, với việc chuẩn hóa hệ biểu tượng, ngôn ngữ thị giác và nguyên tắc khai thác. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển công nghiệp văn hóa một cách có trách nhiệm, tránh tình trạng “mượn danh di sản” hay thương mại hóa dễ dãi.
“Việc đưa di sản vào dòng chảy đời sống hiện đại luôn tiềm ẩn rủi ro, cần có khung quản trị chặt chẽ, sự tham gia của chuyên gia, cộng đồng và doanh nghiệp có trách nhiệm. Yên Tử đang cho thấy một hướng đi đáng kỳ vọng để di sản không chỉ được vinh danh, mà còn được sống, được kể tiếp câu chuyện của mình trong đời sống đương đại”, bà Mai chia sẻ.
Nguồn: https://dantri.com.vn/du-lich/quan-the-yen-tu-duoc-unesco-vinh-danh-ke-chuyen-di-san-theo-cach-moi-20251223103733439.htm

