Bài toán tăng trưởng cao, bền vững của Việt Nam
Năm 2026 được nhìn nhận là một dấu mốc đặc biệt của Việt Nam, khi đất nước bước vào giai đoạn chuyển giao nhiệm kỳ của Đảng, của Quốc hội và bộ máy chính quyền các cấp.
Đây không chỉ là sự thay đổi về nhân sự, mà còn là thời điểm hàng loạt chính sách quan trọng đã được ban hành trong thời gian qua chính thức đi vào triển khai, từ vận hành bộ máy sau sắp xếp đến thực hiện các nghị quyết lớn liên quan phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng và thực thi pháp luật, hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ, giáo dục – đào tạo, y tế…
2026 cũng là thời điểm Việt Nam bước vào giai đoạn kỷ nguyên mới, với mục tiêu tăng trưởng hai con số, không chỉ trong một năm mà kéo dài cho nhiều năm tiếp theo. Hàng loạt dự án lớn đã sẵn sàng khởi động, không khí phát triển lan tỏa trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.
Trao đổi với phóng viên trong podcast “Xây dựng doanh nghiệp dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình” do báo Dân trí tổ chức, có sự đồng hành của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – VietinBank, ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký VCCI, cho rằng 2026 là năm mà Việt Nam đang tự đặt mình vào một đường ray chạy với tốc độ rất cao.
Dưới góc nhìn cá nhân, vị chuyên gia này kỳ vọng nếu tập trung cao độ, Việt Nam có thể nhanh chóng đạt được những mục tiêu lớn, trong đó có khát vọng vươn lên trở thành một quốc gia phát triển trong tương lai không xa.
Việc đặt mục tiêu phát triển cao của Việt Nam, theo ông Đậu Anh Tuấn, không phải là chạy theo những con số đơn thuần, mà gắn liền với mong muốn nâng cao tầm vóc, vị thế của quốc gia, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân (Ảnh: Hải Long).
Tuy nhiên, ông Tuấn nhấn mạnh tăng trưởng mạnh luôn đi kèm rủi ro. “Mọi thứ luôn có mặt này mặt khác, chúng ta không thể kỳ vọng đều màu hồng”, ông thẳng thắn nhìn nhận. Song, điểm tựa quan trọng nhất của Việt Nam chính là tinh thần nhất trí cao, sự đồng tâm, hiệp lực cho mục tiêu phát triển chung của đất nước.
Do đó, việc đặt mục tiêu phát triển cao của Việt Nam không phải là chạy theo những con số đơn thuần, mà gắn liền với mong muốn nâng cao tầm vóc, vị thế của quốc gia, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, để cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
Khi mục tiêu phát triển đạt được, những trụ cột khác như an sinh xã hội, giáo dục, chăm sóc y tế, an ninh – quốc phòng và vị thế quốc gia trên trường quốc tế cũng sẽ được cải thiện tương ứng.
Từ đây, cách đặt phát triển làm ưu tiên hàng đầu cũng phải đồng nghĩa với yêu cầu phải tạo lập một môi trường kinh doanh tốt nhất, thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. “Khi đã ưu tiên cho sự phát triển thì bất cứ một chính sách nào cản trở mục tiêu này, cản trở phát triển đều phải loại bỏ, phải thay đổi”, ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.
Tăng trưởng nhanh cũng đặt ra những thách thức, chẳng hạn như nguy cơ gia tăng chênh lệch xã hội. Tuy nhiên, với chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Việt Nam đã và đang triển khai nhiều chương trình về an sinh xã hội, nhà ở cho người nghèo, hỗ trợ người dân bị mất nhà cửa do thiên tai, cho thấy quan điểm nhất quán là không bỏ qua những tác động không mong muốn của tăng trưởng, mà tìm cách giảm thiểu và xử lý.
“Những ai đau đáu với sự tụt hậu của nền kinh tế, sự tụt hậu vị thế của đất nước thì sẽ có sự chia sẻ về tầm nhìn, sự sốt ruột và có những hành động thực tiễn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
Tôi nói chuyện với nhiều doanh nhân, doanh nghiệp, nhiều người ở nhiều giới khác nhau và cũng chứng kiến tinh thần hứng khởi của họ trước vận hội mới”, ông Tuấn bày tỏ.
Nội hàm khái niệm doanh nghiệp dân tộc
Trong bức tranh phát triển của Việt Nam, khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” được nhắc đến như một trụ cột quan trọng. Đây tuy không phải là khái niệm mới, nhưng cần được hiểu đúng và đầy đủ về nội hàm.
Trước hết, doanh nghiệp dân tộc gắn liền với tinh thần tự lực, tự cường của doanh nghiệp Việt Nam và của cả nền kinh tế. Đó là những doanh nghiệp của người Việt, đang hoạt động tại Việt Nam và gắn bó lâu dài với mảnh đất này.
FDI tuy là cần thiết cho phát triển, song cũng cần nhìn nhận một thực tế rằng nhà đầu tư nước ngoài “có thể đến rất nhanh nhưng cũng có thể đi rất nhanh”.
Trong khi đó, “chỉ có người Việt Nam sống trên mảnh đất này mới gắn bó trọn đời, nhiều đời, hơn ai hết là những người chia sẻ lợi ích, giá trị và cả những bức xúc ở đây”, ông Tuấn chia sẻ. Tính dân tộc, theo ông, chính là sự kết nối qua nhiều thế hệ và được bồi đắp qua thời gian.
“Mỗi doanh nghiệp Việt đều cần nhận thức rõ về sứ mệnh của mình là đang chuyển tải hình ảnh của Việt Nam, mang giá trị Việt Nam ra thế giới”, Phó tổng thư ký VCCI nhấn mạnh (Ảnh: Hải Long).
Ở chiều sâu hơn, doanh nghiệp dân tộc còn được thể hiện qua sản phẩm và hoạt động gắn liền với đất nước, với hai chữ “Việt Nam”. Mỗi sản phẩm, mỗi dịch vụ của doanh nghiệp khi xuất hiện trên thị trường không chỉ mang giá trị kinh tế, mà còn là một “đại sứ thương hiệu quốc gia”.
Cũng giống như nhiều người Việt chưa từng đến Nhật Bản nhưng vẫn có thiện cảm và sự ngưỡng mộ đối với đất nước này thông qua các sản phẩm tiêu dùng hằng ngày có chất lượng tốt, độ bền cao, hình ảnh quốc gia của Việt Nam nên được xây dựng từ chính những sản phẩm với phẩm chất tương xứng.
“Mỗi doanh nghiệp Việt đều cần nhận thức rõ về sứ mệnh của mình là đang chuyển tải hình ảnh của Việt Nam, mang giá trị Việt Nam ra thế giới”, vị chuyên gia của VCCI nhấn mạnh.
Thậm chí, ngay cả khi một số doanh nghiệp chưa ý thức đầy đủ về sứ mệnh này, chỉ cần họ nỗ lực tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt cho người dùng, không ngừng nâng cao chất lượng và uy tín, thì theo ông Tuấn, họ vẫn là những doanh nghiệp dân tộc đang xây dựng giá trị cho đất nước.
Nhìn nhận từ góc độ chính sách, tinh thần tự lực, tự cường này cũng được phản ánh rõ nét trong Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân hiện được xác định là lực lượng đóng góp quan trọng nhất cho tăng trưởng trong giai đoạn tới. Mỗi doanh nghiệp, theo đó, không chỉ là một chủ thể kinh doanh, mà còn là một thành tố quan trọng cho hình ảnh quốc gia và sự vững bền của dân tộc.
Cần đội ngũ doanh nghiệp tư nhân sản xuất lớn mạnh
Thực tế, khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam những năm sau Đổi mới đã có những bước phát triển rất nhanh. Từ lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ đến nông nghiệp, công nghiệp, dấu ấn của khu vực này ngày càng rõ nét.
Nhiều câu chuyện thực tiễn cho thấy doanh nghiệp tư nhân không chỉ tạo ra giá trị kinh tế, mà còn đóng góp tích cực cho an sinh xã hội và bảo vệ môi trường
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh vẫn đặt ra không ít trăn trở. Nghiên cứu về 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam của Bộ Tài chính mới đây cho thấy bất động sản và tài chính vẫn chiếm hơn 50% tỷ trọng, trong khi sản xuất, chế biến, chế tạo chỉ chiếm chưa đến 10%.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, để giúp doanh nghiệp vượt khó, Chính phủ cần có những giải pháp hỗ trợ tập trung vào cung ứng mặt bằng sản xuất phù hợp, tín dụng dài hạn với chi phí hợp lý, đào tạo nguồn nhân lực và tiếp cận công nghệ (Ảnh: Hải Long).
“Thực tế này rất đáng trăn trở”, ông Tuấn nói, nhất là khi mục tiêu dài hạn của nền kinh tế là nâng cao năng lực sản xuất và khả năng tự chủ.
Doanh nghiệp sản xuất hiện đang đối mặt với hàng loạt khó khăn, từ thủ tục hành chính, tiếp cận đất đai, vốn tín dụng đến nhân lực và công nghệ. “Đứng ở góc độ nhà sản xuất là trăm bề khó”, ông mô tả, khi biên lợi nhuận thấp hơn nhiều so với bất động sản hay tài chính, trong khi rủi ro lại cao hơn.
Không chỉ vậy, động lực thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất ở nhiều địa phương cũng chưa thực sự mạnh, nếu so với phát triển bất động sản mang lại nguồn thu ngân sách nhanh và dễ thấy trong nhiệm kỳ. Điều này đặt ra yêu cầu phải thiết kế chính sách tốt hơn, để địa phương vừa phát triển bất động sản, vừa chú trọng phát triển sản xuất công nghiệp.
Trao đổi trong podcast, Phó tổng thư ký VCCI cho rằng giải pháp cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi như mặt bằng sản xuất phù hợp, tín dụng dài hạn với chi phí hợp lý, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và tiếp cận công nghệ. Đồng thời, cần giảm gánh nặng tuân thủ về thủ tục, quy chuẩn, giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Một điểm đáng chú ý khác là khả năng doanh nghiệp Việt đi ra nước ngoài và xây dựng thương hiệu toàn cầu vẫn còn khiêm tốn. Dù đã có những tín hiệu tích cực, song rào cản về thủ tục trong quá khứ khiến nhiều doanh nghiệp e ngại.
Việc Luật Đầu tư sửa đổi theo hướng cởi mở hơn được kỳ vọng sẽ tạo cú hích mới, giúp doanh nghiệp Việt không chỉ xuất khẩu hàng hóa, mà còn đầu tư vốn, đầu tư công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Xét về dài hạn, mục tiêu phát triển doanh nghiệp dân tộc của Chính phủ không chỉ dừng ở số lượng, mà quan trọng hơn là chất lượng và vị thế. “Muốn có được những doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu toàn cầu, chúng ta phải có một hệ thống nuôi dưỡng, một bệ đỡ từ phía Nhà nước”, ông Tuấn nhấn mạnh.
VietinBank là ngân hàng thương mại quốc gia Việt Nam, đóng vai trò trụ cột, chủ lực của nền kinh tế, đồng hành và phụng sự cho sự phát triển của đất nước, mang lại giá trị tối ưu cho khách hàng, cổ đông, người lao động, đối tác và cộng đồng.
VietinBank đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn trở thành ngân hàng đa năng, hiện đại, hiệu quả, mạnh nhất và uy tín nhất Việt Nam, hàng đầu khu vực châu Á – Thái Bình Dương và uy tín cao trên thế giới.
Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/xay-dung-doanh-nghiep-dan-toc-trong-ky-nguyen-moi-20251224182234561.htm

