Hà NộiTừ năm 2020 đến nay, Việt Nam xảy ra hơn 24.000 vụ lừa đảo qua mạng với các thủ đoạn tinh vi, đánh đúng tâm lý nạn nhân, gây thiệt hại gần 40.000 tỷ đồng.
Thông tin được nêu tại hội thảo khoa học về phòng, chống tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng, do Bộ Công an cùng các đơn vị liên quan tổ chức tại Học viện Cảnh sát nhân dân, ngày 29/12.
Theo đại tá Nguyễn Thanh Hà, Cục phó cảnh sát hình sự Bộ Công an (C02), lừa đảo trực tuyến trên thế giới và khu vực ngày càng tăng nhanh (riêng năm 2025 đã kéo giảm hơn 20%) với thủ đoạn tinh vi, khó phát hiện. Chúng thường lợi dụng AI, tài khoản mạng xã hội ảo để xây dựng các kịch bản lừa đảo đánh đúng vào tâm lý bị hại.
Thủ đoạn của loại tội phạm này rất đa dạng, song thường tập trung vào 9 “chiêu” chính.
Giả mạo cơ quan chức năng là thủ đoạn được dùng nhiều nhất, đa dạng nhất. Đặc biệt là giả công an, viện kiểm sát, tòa án gọi điện dọa nạn nhân để yêu cầu chuyển tiền xác minh, giải quyết vụ việc.
Gần đây, các nhóm này còn dựng phòng làm việc giống cơ quan công an, treo quốc kỳ, quốc huy, mặc quân phục, thậm chí có người bị còng tay để tạo lòng tin.
Với “hậu kỳ” chỉn chu, chúng gọi video nhằm thao túng tâm lý, khiến nạn nhân hoảng sợ, tự cung cấp thông tin cá nhân, tài khoản ngân hàng, mạng xã hội. Khi chiếm được tài khoản, nhóm này tiếp tục khống chế, yêu cầu người thân chuyển tiền chuộc.
Ngoài ra, các nhóm lừa đảo còn giả mạo bộ đội nhờ đặt hàng hộ; giả bệnh viện, nhân viên y tế thông báo người thân cấp cứu; giả giáo viên giới thiệu chương trình du học; giả điện lực, nước sạch, nhà mạng, luật sư, Bộ Tài chính, ngân hàng…
Lừa đảo việc làm là thủ đoạn xuất hiện nhiều thứ hai. Nhóm phạm tội dụ dỗ nạn nhân bằng lời mời “việc nhẹ lương cao”, tuyển dụng việc làm tại nhà, cộng tác viên bán hàng online, làm nhiệm vụ kiếm tiền.
Sau đó, chúng yêu cầu nộp phí để chiếm đoạt tiền hoặc chi trả các khoản thưởng nhỏ nhằm đánh vào lòng tham của bị hại. Nguy hiểm hơn, nhiều người còn bị “lừa đảo xuất khẩu lao động”, sau đó bị mua bán, ép buộc làm việc tại các trung tâm lừa đảo trực tuyến.
Ở chiêu lừa đảo đầu tư, chúng tạo ra các sàn giao dịch tài chính, tiền ảo giả mạo, kêu gọi đầu tư với cam kết lợi nhuận phi thực tế. Thủ đoạn này thường đi liền với mô hình lừa đảo đa cấp. Nhiều vụ, tội phạm còn thuê người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội để quảng cáo, kêu gọi đầu tư.
Lừa đảo tình cảm cũng xuất hiện khá nhiều khi chúng dùng các tài khoản mạng xã hội không chính chủ, làm quen, tạo mối quan hệ tình cảm qua mạng rồi lừa tiền. Thông thường sẽ là chiếm đoạt tiền bằng cách rủ đầu tư vào các đường link giả mạo thương hiệu.
Sử dụng công nghệ AI, Deepfake: Tạo ra các “video call” giả mạo khuôn mặt, giọng nói của người thân, bạn bè của bị hại để vay tiền khẩn cấp hoặc sử dụng AI ghép mặt bị hại vào các video, ảnh nhạy cảm để lừa đảo, tống tiền.
Cục phó C02 Nguyễn Thanh Hà tại hội thảo. Ảnh: Phạm Dự
Lừa đảo trong thương mại điện tử, giao dịch trực tuyến: Tội phạm gửi các đường link giả mạo trong thanh toán trực tuyến, giả mạo sản phẩm hoặc lừa đảo chiếm đoạt tiền đặt cọc của người mua hàng.
Lừa đảo cài app: Dụ dỗ nạn nhân cài app giả mạo có giao diện giống như app thật để chiếm quyền điều khiển thiết bị, chiếm tiền trong tài khoản.
Vờ chuyển nhầm tiền vào tài khoản để chiếm đoạt: Sau khi chuyển tiền nhầm, chúng sẽ nhắn tin để xin lại và nếu bị hại chủ quan chuyển trả lại sẽ bị ép chuyển tiền nhiều lần, dọa báo công an.
Thông qua hoạt động kêu gọi làm từ thiện để lừa đảo.
Lý do có nhiều ‘tập đoàn’ lừa đảo
Theo đại tá Hà, vì lợi nhuận siêu lớn, rủi ro thấp nên các nhóm lừa đảo đã bất chấp pháp luật và ngày càng hình thành các tập đoàn lừa đảo trên khắp thế giới. Chúng triệt để lợi dụng địa bàn một số nước Đông Nam Á là nơi pháp luật và chính quyền quản lý lỏng lẻo để thiết lập các “trung tâm lừa đảo”.
Việt Nam là một nước giáp biên nên vô tình trở thành “chiến trường nóng” của loại tội phạm này. Chúng lợi dụng Việt Nam để tuyển dụng lao động, rửa tiền.
Trong khi đó, ở phía bị hại, họ có tâm lý hám lợi, dễ tin vào “việc nhẹ lương cao”, đầu tư nhàn hạ hưởng lợi nhuận khủng… nên trở thành miếng mồi béo bở cho tội phạm. Thói quen chia sẻ dữ liệu cá nhân bừa bãi và xu hướng tin vào người “xưng danh cơ quan nhà nước” qua điện thoại, mạng xã hội, cũng tạo điều kiện cho tội phạm khai thác.
Cục phó C02 cũng cho rằng một phần nguyên nhân cũng ở công tác quản lý nhà nước còn sơ hở, thiếu sót. Nhất là trong việc quản lý chính chủ các thuê bao điện thoại, mạng Internet, tài khoản ngân hàng, ví điện tử, tài khoản mạng xã hội. Trình độ về công nghệ của lãnh đạo, cán bộ trực tiếp phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này cũng chưa tương xứng với sự phát triển của công nghệ. Trang thiết bị công nghệ cao để phòng chống tội phạm còn thiếu, lỗi thời, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Ông Phạm Gia Bảo, Cục phó phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước. Ảnh: Phạm Dự
Ngăn chặn lừa đảo qua mạng thế nào?
Ông Phạm Gia Bảo, Cục phó Phòng chống rửa tiền (Ngân hàng Nhà nước), cho biết qua nghiên cứu thực tiễn, để tránh bị lừa đảo qua mạng, người dân tuyệt đối không truy cập, đăng nhập các đường dẫn, liên kết, website, ứng dụng hoặc mở tệp đính kèm từ người gửi không xác định.
Người dân cũng không nên kết bạn với người lạ, các tài khoản mạng xã hội nghi là ảo. Khi nhận được đề nghị mở hộ, cho thuê, bán tài khoản ngân hàng, SIM, cần tham khảo ý kiến người hiểu biết hoặc liên hệ công an nơi gần nhất để được hỗ trợ.
Với cơ quan Nhà nước, ông Bảo kiến nghị cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực viễn thông, tài chính, tiền ảo, tài sản ảo để theo kịp sự phát triển của công nghệ. Nhà chức trách cũng nên ứng dụng các công cụ công nghệ trong giám sát nhằm phát hiện, ngăn chặn hoạt động lừa đảo qua mạng.
Theo ông, công tác quản lý thuê bao, xử lý SIM không chính chủ cũng là vấn đề cấp bách cần giải quyết để phòng ngừa tội phạm lừa đảo trên không gian mạng.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Anh Cương, Cục phó Viễn thông (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho biết đơn vị đã chỉ đạo các nhà mạng phối hợp với đơn vị liên quan xác thực, bảo đảm thông tin thuê bao trùng khớp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Các doanh nghiệp sau đó đã xác minh hơn 125 triệu thông tin thuê bao và xử lý 17 triệu thuê bao có thông tin chưa trùng khớp.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn các SIM có thông tin thuê bao không chính chủ, từ đó không xác định được người sử dụng. Nguyên nhân là do nhiều người chưa ý thức được tầm quan trọng của việc dùng SIM “chính chủ”. Một số trường hợp chuyển quyền sử dụng SIM nhưng không cập nhật thông tin, hoặc cho thuê, mượn giấy tờ để đăng ký thuê bao.
Nguồn: https://vnexpress.net/5-nam-nguoi-viet-mat-gan-40-000-ty-dong-vi-lua-dao-truc-tuyen-4999575.html

