Tại Hội nghị khoa học kỹ thuật Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM 2025, diễn ra ngày 13/12, TS.BS Nguyễn Minh Hảo Hớn, Trưởng khoa Mũi xoang cùng cộng sự đã có bài báo cáo về nguyên nhân thất bại của phẫu thuật nội soi mũi xoang và các giải pháp khắc phục.
Theo đó, phẫu thuật nội soi mũi xoang (PTNSMX) hiện là phương pháp điều trị chọn lựa cho viêm mũi xoang mạn tính kém đáp ứng với điều trị nội khoa. PTNSMX giúp cải thiện rõ rệt chất lượng cuộc sống ở 80–98% bệnh nhân, giảm đáng kể tắc nghẹt mũi, đau mặt, chảy dịch và cải thiện chức năng khứu giác.
Tuy nhiên, tỷ lệ phẫu thuật lại tại các trung tâm vẫn ở mức đáng kể.
Tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM, dữ liệu khảo sát giai đoạn 2023-2024 trên gần 2.800 ca PTNSMX đã ghi nhận tổng cộng 269 trường hợp phải mổ lại do viêm mũi xoang tái phát, bao gồm cả bệnh nhân từ tuyến dưới chuyển đến và các ca điều trị tại viện.
Trong đó, u nhầy thứ phát sau phẫu thuật có 105 trường hợp (39%), tiếp theo sau là viêm mũi xoang mạn tính tái phát với 100 ca (hơn 37%).
Những trường hợp không do polyp có thể do tắc xoang trán, xoang hàm, xoang sàng, xoang bướm do bất thường cấu trúc giải phẫu, các hành lang phẫu thuật chưa đủ rộng để tiếp cận bệnh tích. Thậm chí, một số trường hợp không lấy sạch bệnh tích do lỗi kỹ thuật khi mổ.
Một ca phẫu thuật nội soi mũi xoang tại Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM (Ảnh: BS).
Tình trạng tắc nghẽn hoặc hẹp đường dẫn lưu được xác định ở 21 trường hợp, chủ yếu xảy ra tại ngách trán (19 ca) và xoang bướm (2 ca).
Trong đó, vị trí u nhầy thường gặp nhất là vùng sàng – trán với 51 ca, thường có xu hướng lan vào hốc mắt, tiếp theo là xoang hàm, xoang bướm, tế bào Onodi hay túi lệ… Ngoài ra, các bác sĩ còn ghi nhận 63 trường hợp viêm mũi xoang tái phát có ghi nhận nấm cục, tính cả các trường hợp đồng mắc.
Qua tổng kết, nhóm nghiên cứu nhận thấy phần lớn thất bại PTNSMX liên quan trực tiếp đến kỹ thuật phẫu thuật, như: mở không đủ rộng, sót cấu trúc, không xử lý triệt để tại các vùng quan trọng.
Song song đó, có các yếu tố nội khoa, các bệnh đồng mắc (hen suyễn, AERD) trên bệnh nhân và sự hiện diện của biofilm (màng sinh học) cũng là yếu tố nguy cơ. Ngoài ra, vấn đề chăm sóc hậu phẫu và nhận thức về tình hình bệnh của bệnh nhân góp phần quan trọng vào hiệu quả điều trị.
TS.BS Nguyễn Minh Hảo Hớn và cộng sự nhận định, việc tích hợp các hệ thống phân loại hiện đại (như IESSC và LOEM) vào quy trình lập kế hoạch là bước đi thiết yếu để đồng bộ hóa mức độ can thiệp. Qua đó, giúp giảm đáng kể tỷ lệ tái phát, tối ưu hóa kết quả và nâng cao chất lượng sống dài hạn cho bệnh nhân.
PGS.TS.BS Lê Trần Quang Minh, Giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM cho biết, hội nghị năm nay có chủ đề “Chẩn đoán – Điều trị bệnh lý Tai Mũi Họng trong thời kỳ chuyển đổi số”.
Hội nghị thu hút 400 đại biểu là các chuyên gia đầu ngành, nhà nghiên cứu, bác sĩ và điều dưỡng chuyên khoa tai mũi họng, bao gồm 1 phiên toàn thể và 4 phiên chuyên đề (Tai – Tai Thần kinh – Thính học; Họng – Thanh quản – Phẫu thuật đầu cổ – Tạo hình thẩm mỹ; Mũi xoang; Điều dưỡng Tai Mũi Họng).
PGS.TS.BS Lê Trần Quang Minh, Giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM báo cáo tại hội nghị (Ảnh: Hoàng Lê).
Hội nghị được tổ chức nhằm mục đích nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ y tế; thúc đẩy nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới; xây dựng mạng lưới hợp tác giữa các cơ sở y tế, trường đại học, tổ chức nghiên cứu; mang đến giải pháp tối ưu cho việc chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tai mũi họng.
Nguồn: https://dantri.com.vn/suc-khoe/bac-si-tiet-lo-nguyen-nhan-269-ca-mo-noi-soi-mui-xoang-o-tphcm-that-bai-20251213092302200.htm

