Chủ Nhật, Tháng mười hai 21, 2025
HomeCông NghệBước ngoặt cho khoa học công nghệ Việt Nam

Bước ngoặt cho khoa học công nghệ Việt Nam

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá năm 2025 có nhiều thử thách của ngành, nhưng với nhận thức, cách làm mới, đã tạo ra nhiều kết quả, tác động thực chất.

Đánh giá được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2025, kế hoạch công tác năm 2026 của khối khoa học, hợp tác quốc tế và pháp chế, diễn ra chiều 20/12. Sự kiện nằm trong chuỗi tổng kết của các đơn vị trong Bộ Khoa học và Công nghệ.

Khác với các năm trước đây, năm nay hoạt động tổng kết được thực hiện theo các khối, nhằm giúp các đơn vị trong Bộ tăng gắn kết nội bộ và hình thành góc nhìn tổng thể, khái quát, từ đó phối hợp làm việc hiệu quả hơn.

Theo Bộ trưởng, 2025 là năm bản lề của Bộ Khoa học và Công nghệ, khi hai Bộ hợp nhất, hình thành một Bộ có quy mô lớn, tạo ra sự hợp lực giữa khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hình thành ba trụ cột thúc đẩy phát triển đất nước.

Trong bối cảnh đó, Bộ trưởng đánh giá cao nỗ lực của các đơn vị trong 9 tháng vừa qua, khi vừa bảo đảm nhiệm vụ thường xuyên, vừa triển khai nhiều “việc khó, việc mới, lần đầu thực hiện” trong điều kiện tổ chức và phương thức quản lý thay đổi nhanh. “Năm 2025, chúng ta đã thay đổi nhiều: thay đổi nhận thức, thay đổi cách làm, thay đổi cách sử dụng các công cụ làm việc mới và cũng tạo ra nhiều kết quả hơn”, ông nói, lấy ví dụ việc soạn thảo và được thông qua 10 luật trong năm qua “tương đương số lượng của 25 năm”, có những luật tiên phong trên thế giới như Luật AI, Luật Chuyển đổi số.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị Tổng kết của khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế, Pháp chế, ngày 20/12/2025. Ảnh: Lưu Quý

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị Tổng kết của khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế, Pháp chế, chiều 20/12. Ảnh: Lưu Quý

Theo Bộ trưởng, những mục tiêu lớn và áp lực cao đã buộc bộ máy phải thay đổi cách làm, hướng mạnh hơn tới kết quả cuối cùng và tác động thực chất đối với phát triển kinh tế – xã hội.

“Con người sẽ có những năng lực đặc biệt khi ở tình thế đặc biệt”, ông nói, đồng thời đưa ra định hướng, cách làm mới cho từng đơn vị. “Không hướng tới kết quả, tác động cuối cùng thì đất nước không thể phát triển”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST): từ nghiên cứu sang làm chủ và thương mại hóa công nghệ

Năm qua, khối khoa học của Bộ với một trong những mũi nhọn là VKIST đã triển khai 64 nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Trong số này có 47 nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước, 7 nhiệm vụ ODA, 9 nhiệm vụ do doanh nghiệp đặt hàng và một nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu trực tiếp với doanh nghiệp. VKIST đã ký 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó có các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Theo báo cáo, các doanh nghiệp tham gia chuyển giao công nghệ cam kết doanh thu tối thiểu khoảng 130 tỷ đồng trong vòng 5 năm, cho thấy xu hướng gắn nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của thị trường.

Đánh giá kết quả có nhiều điểm tích cực, Bộ trưởng cũng đề nghị VKIST không chỉ dừng ở việc phối hợp nghiên cứu, mà phải “đồng phát triển” với doanh nghiệp, cùng tham gia từ khâu nghiên cứu, phát triển đến ứng dụng và đưa sản phẩm ra thị trường. Ông yêu cầu VKIST phải đổi mới căn bản cách tiếp cận, chuyển từ mô hình viện nghiên cứu sang đơn vị làm chủ công nghệ và thương mại hóa công nghệ cho doanh nghiệp.

Thay vì đo bằng số lượng đề tài hay báo cáo khoa học, Bộ trưởng đề nghị tiêu chí đánh giá phải là giá trị tạo ra cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Theo ông, VKIST cần chuyển từ làm nhỏ sang làm những dự án có quy mô đủ lớn, “làm cho ra tấm ra món”, tạo tác động rõ ràng và có khả năng nhân rộng.

Một yêu cầu quan trọng được Bộ trưởng nhấn mạnh là đổi mới cơ chế tài chính. Theo đó, VKIST cần chuyển từ cách làm đề tài nghiên cứu truyền thống sang mô hình Nhà nước đặt hàng công nghệ, đồng thời cho biết nguồn lực đầu tư của Nhà nước sẽ gắn trực tiếp với nhiệm vụ làm chủ và cung cấp công nghệ cho doanh nghiệp, thay vì chỉ dừng ở kết quả nghiên cứu.

Ngoài ra, theo Bộ trưởng, những chính sách mới của Bộ cần có nơi làm trước để thử nghiệm, đánh giá và điều chỉnh. “VKIST phải là đơn vị mẫu ứng dụng các chính sách mới về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số do Bộ Khoa học và Công nghệ viết ra”, ông nói. Bộ sẵn sàng đặt hàng đầu tư các phòng thí nghiệm quy mô lớn, thậm chí lên tới 500 tỷ đồng, để VKIST triển khai các mô hình phòng thí nghiệm ngang tầm quốc tế.

Về định hướng dài hạn, Bộ trưởng đặt mục tiêu trong vòng 5 năm tới, quy mô hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của VKIST phải tăng trưởng gấp đôi qua từng năm. Theo ông, để đạt được mục tiêu này, VKIST cần thay đổi cách tiếp cận trong quản trị, coi lãnh đạo không chỉ là nhà khoa học mà là nhà quản lý nghiên cứu, có khả năng thu hút lực lượng nghiên cứu toàn cầu, thuê chuyên gia quốc tế, hình thành các doanh nghiệp spin-off và tổ chức nghiên cứu theo cơ chế linh hoạt.

Lãnh đạo các đơn vị tại hội nghị tổng kết, ngày 20/12/2025. Ảnh: Lưu Quý

Lãnh đạo các đơn vị tại hội nghị tổng kết, ngày 20/12/2025. Ảnh: Lưu Quý

Vụ Pháp chế: từ “giữ cổng pháp lý” sang thiết kế hệ thống thể chế

Trong năm 2025, Vụ Pháp chế là một trong những đơn vị có khối lượng công việc lớn của Bộ. Vụ đã chủ trì, phối hợp xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành 10 luật, một nghị quyết của Quốc hội, 18 nghị định, một nghị quyết của Chính phủ, 5 quyết định của Thủ tướng và 44 thông tư, đồng thời tham mưu Chính phủ ban hành một số nghị quyết, đề mục pháp điển, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ngành Khoa học và Công nghệ.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá cao kết quả này, nhưng cũng góp ý Vụ cần gắn kết hơn với chuyên ngành Khoa học và Công nghệ. Theo Bộ trưởng, Bộ quản lý nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng phải được nhìn nhận như một tổng thể thống nhất, trong đó thể chế có vai trò kết nối và dẫn dắt. Ông yêu cầu Vụ chuyển mạnh vai trò từ “người giữ cổng pháp lý” sang “người thiết kế hệ thống thể chế”.

Bộ trưởng lấy ví dụ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng phải gắn chặt với khoa học và công nghệ; hay sở hữu trí tuệ phải gắn với đổi mới sáng tạo, bởi bản chất của đổi mới sáng tạo là đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường để mua bán, thương mại hóa. Chuyển đổi số cũng tác động trực tiếp, đẩy nhanh tiến trình phát triển khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh đó, Vụ Pháp chế được yêu cầu đóng vai trò “kiến trúc sư trưởng” trong thiết kế thể chế, bảo đảm các luật, nghị định, thông tư không mâu thuẫn, chồng chéo.

Để làm được điều này, ông yêu cầu Vụ Pháp chế không nên đứng ở cuối quy trình để rà soát câu chữ, mà phải tham gia ngay từ đầu trong quá trình hình thành chính sách. Về tư duy làm luật, Bộ trưởng nhấn mạnh cần chuyển từ cách tiếp cận “luật để quản lý chặt chẽ” sang “luật để mở đường cho đổi mới nhưng có kiểm soát rủi ro”. Tuy nhiên, ông lưu ý không được đi theo hướng cực đoan, mà cần kiến tạo phát triển đi cùng với quản lý để duy trì ổn định xã hội, với tinh thần ‘phát triển’ và ‘bền vững’ là hai mục tiêu song hành.

Một yêu cầu khác được Bộ trưởng đặt ra là đổi mới cách thiết kế công cụ pháp lý. Theo đó, ngoài các công cụ “cứng” như luật, nghị định, thông tư, cần sử dụng thêm các “công cụ mềm” như tiêu chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật, khung thử nghiệm, hợp đồng mẫu hay các công cụ số, nhằm tăng tính linh hoạt và khả năng thích ứng của chính sách trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển nhanh.

Về năng lực đội ngũ, Bộ trưởng yêu cầu Vụ Pháp chế chuyển từ mô hình chuyên gia pháp luật thuần túy sang “luật sư chính sách công nghệ”, am hiểu cả pháp luật lẫn chuyên môn. “Pháp chế không nên là trạm kiểm soát, mà phải là trục nối, thống nhất giữa chuyên môn và thể chế”, Bộ trưởng nói, đồng thời nhấn mạnh vai trò trung tâm của Vụ trong kiến trúc thể chế của Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn tới.

Vụ Hợp tác quốc tế: từ “làm quan hệ” sang làm năng lực quốc gia

Trong năm 2025, Vụ Hợp tác quốc tế đã quản lý và triển khai khối lượng lớn hoạt động hợp tác quốc tế của Bộ. Cụ thể, Vụ phối hợp tổ chức 38 đoàn lãnh đạo Bộ đi công tác nước ngoài và đón, tiếp 100 đoàn khách quốc tế. Vụ cũng ký kết 17 văn bản thỏa thuận hợp tác quốc tế, gồm một hiệp định cấp Chính phủ với Hàn Quốc và 16 biên bản ghi nhớ cấp Bộ, cùng 6 MoU với các trường đại học và doanh nghiệp. Vụ đã xây dựng cơ sở dữ liệu 259 chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài từ 8 văn phòng đại diện khoa học và công nghệ.

Đánh giá bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển nhanh, Việt Nam không thể chỉ dựa vào năng lực trong nước mà phải tận dụng tri thức và tinh hoa toàn cầu để giải quyết các bài toán phát triển của quốc gia, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh hợp tác quốc tế của Bộ phải xoay quanh hai mục tiêu cốt lõi: mang thế giới về Việt Nam và mang Việt Nam ra thế giới.

Bộ trưởng yêu cầu Vụ Hợp tác quốc tế đổi mới căn bản cách làm, chuyển từ “làm quan hệ” sang làm năng lực quốc gia, từ đối ngoại hành chính sang vai trò kiến trúc sư hợp tác chiến lược. Theo ông, Vụ không chỉ tổ chức đoàn, hay ký các văn bản hợp tác mang tính hình thức, mà phải thiết kế được các chuỗi hợp tác công nghệ chiến lược, trả lời rõ câu hỏi hợp tác để lấy cái gì và phục vụ mục tiêu phát triển nào của đất nước. Lấy ví dụ với việc đổi mới viễn thông của Việt Nam, Bộ trưởng cho rằng đây là minh chứng rõ nhất cho giá trị của hợp tác quốc tế, là lực lượng “mở đường”, và việc này cần được phát huy tốt hơn trong giai đoạn mới, từ hợp tác học thuật sang chuyển giao năng lực.

“Việt Nam hiện có điều kiện về phòng thí nghiệm, có tiền, cần đưa tri thức toàn cầu về đây”, ông giao nhiệm vụ cho Vụ Hợp tác quốc tế.

Bộ trưởng cũng đặc biệt lưu ý vai trò của mạng lưới khoa học và công nghệ của Bộ ở nước ngoài. Theo ông, đây là lực lượng có giá trị lớn nhưng chưa được khai thác đúng mức, thiếu cơ hội tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn của Việt Nam, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Ông yêu cầu phải giao nhiệm vụ cụ thể, gắn mạng lưới này với các chương trình, dự án trọng điểm trong nước.

Vụ Khoa học xã hội, Nhân văn và Tự nhiên: kiến tạo nền tảng tri thức cho phát triển dài hạn

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng yêu cầu đổi mới căn bản cách tiếp cận đối với nghiên cứu khoa học cơ bản, chuyển từ tư duy “đi từ trên trời xuống đất” sang “đi từ đất lên trời”. Theo Bộ trưởng, nghiên cứu cơ bản cần xuất phát từ những bài toán thực tiễn của Việt Nam, từ đó hình thành và phát triển tri thức nền tảng phục vụ phát triển lâu dài, thay vì xa rời nhu cầu của đất nước.

Bộ trưởng cho biết hiện nay Bộ Khoa học và Công nghệ đã dành khoảng 15-20% tổng ngân sách khoa học và công nghệ cho nghiên cứu khoa học cơ bản, trong đó khoa học tự nhiên chiếm khoảng 60-70%, còn khoa học xã hội và nhân văn chiếm 30-40%. Theo Bộ trưởng, đây là nguồn lực rất lớn, bởi khoa học cơ bản chính là nguồn tri thức lâu dài của dân tộc, nhưng đi kèm với đó là câu hỏi lớn về giá trị tạo ra cho phát triển.

Từ thực tiễn các yêu cầu phát triển của Việt Nam, Bộ trưởng đặt vấn đề, nếu không xuất phát từ các bài toán cụ thể của Việt Nam, nghiên cứu khoa học cơ bản rất dễ rơi vào tình trạng “lửng lơ”, khó tạo tác động. Ông dẫn ra nhiều ví dụ về những vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc, như mô hình tổ chức chính quyền địa phương, công tác đánh giá cán bộ qua nhiều nhiệm kỳ, hay việc khai thác kinh nghiệm lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc trong xây dựng “nguyên khí” quốc gia. Theo Bộ trưởng, đây là những giá trị tri thức rất lớn, không thể đo đếm đơn thuần.

“Vụ Khoa học xã hội, Nhân văn và Tự nhiên phải chuyển từ quản lý đề tài sang định hướng nền tảng tri thức quốc gia”, ông nói, yêu cầu Vụ phải đổi mới vai trò, xác định rõ những nền tảng tri thức mà Việt Nam cần làm chủ trong 15-25 năm tới. Khoa học cơ bản, theo ông, không thể làm theo tư duy ngắn hạn hay chạy theo nhiệm kỳ.

Vụ cũng được yêu cầu xây dựng các chuỗi nhiệm vụ nghiên cứu dài hạn, kéo dài 5 năm hoặc lâu hơn, tập trung vào các nhóm nghiên cứu mạnh và chấp nhận rủi ro có kiểm soát. Ông nhấn mạnh cần chuyển định hướng từ “khoa học cho khoa học” sang “khoa học cho phát triển”, tập trung vào các bài toán lớn của quốc gia, qua đó biến nguồn lực đầu tư rất lớn cho khoa học cơ bản thành nền tảng thực sự cho phát triển bền vững của đất nước.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị Tổng kết của khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế, Pháp chế, ngày 20/12/2025. Ảnh: Lưu Quý

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị Tổng kết của khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế, Pháp chế, ngày 20/12. Ảnh: Lưu Quý

Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ Việt Nam: trở thành “bộ não chiến lược” của Bộ

Năm qua, học viện tổ chức tập huấn trên nền tảng số cho cán bộ, công chức, viên chức cấp xã với hơn 35.000 học viên; đồng thời triển khai tập huấn trực tuyến toàn quốc về phân cấp, phân quyền cho cán bộ Sở Khoa học và Công nghệ và cấp xã tại 34 tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, đơn vị tổ chức 18 lớp bồi dưỡng chức danh viên chức khoa học và công nghệ và công nghệ thông tin cho hơn 2.300 học viên, lớp STEM “0 đồng” thu hút hơn 1.200 lượt học sinh, cùng 15 chương trình đào tạo kỹ năng số và ứng dụng AI cho cán bộ các bộ, ngành, địa phương.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng thẳng thắn nhìn nhận Bộ hiện nay còn “yếu về nghiên cứu chiến lược”, kéo theo sự hạn chế trong các quyết định chiến lược và năng lực dẫn dắt. Theo Bộ trưởng, đã dẫn dắt thì phải xuất sắc. Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Bộ Khoa học và Công nghệ mà là vấn đề chung của đất nước, bởi muốn phát triển nhanh và bền vững thì không thể thiếu chiến lược dẫn dắt phù hợp với văn hóa Việt Nam.

Theo Bộ trưởng, vai trò “kiến trúc sư trưởng” về chiến lược là đặc biệt quan trọng. Chiến lược không thể chỉ là việc dịch và áp dụng các tổng kết quốc tế, bởi nếu không phù hợp với văn hóa tổ chức và bối cảnh quốc gia thì sẽ thất bại. Theo Bộ trưởng, khó khăn lớn nhất của làm chiến lược hiện nay chính là tìm được sự phù hợp đó.

Từ yêu cầu này, Bộ trưởng nhấn mạnh Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ phải đổi mới căn bản về vai trò, chuyển từ nghiên cứu và đào tạo thuần túy sang trở thành “bộ não chiến lược” của Bộ.

“Học viện phải là nơi mà lãnh đạo Bộ tìm đến trước khi đưa ra các quyết định lớn,”, ông nói, cho rằng việc này đảm bảo tính liên tục và bền vững trong tư duy chiến lược, thay vì phụ thuộc vào một cá nhân lãnh đạo. Ông cũng lưu ý làm chiến lược không phải để viết báo cáo rồi cất tủ, mà để trực tiếp phục vụ quá trình ra quyết định.

Về sản phẩm, Bộ trưởng yêu cầu Học viện chuyển từ các báo cáo nghiên cứu dài sang các đầu ra làm cơ sở cho quyết sách, như tóm tắt chính sách, kịch bản phát triển và phân tích các lựa chọn. Theo ông, trong bối cảnh lượng thông tin ngày càng lớn, sản phẩm chiến lược cần ngắn gọn, súc tích, đủ để chạm vào vấn đề cốt lõi và giúp người ra quyết định nhanh chóng nắm bắt bản chất.

Về cách chọn vấn đề, Học viện cần chuyển từ nghiên cứu manh mún sang tập trung vào các vấn đề chiến lược quốc gia, có tác động lớn và dài hạn. Những chủ trương mới của lãnh đạo Bộ, như vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đối với tăng trưởng kinh tế, cần được Học viện làm rõ bằng các nghiên cứu, phân tích và minh họa cụ thể để tạo giá trị thực tế cho chính sách.

Về đào tạo và phát triển đội ngũ, ông yêu cầu Học viện đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức, chuyển từ đào tạo nặng về chứng chỉ sang rèn năng lực tư duy chiến lược và năng lực làm việc mới, lấy “Số” và “AI” làm trục xuyên suốt. Đồng thời, năng lực đội ngũ của Học viện cần được nâng cao, chuyển từ nhà nghiên cứu thuần túy sang chuyên gia chiến lược liên ngành, am hiểu công nghệ, kinh tế và pháp luật. Theo Bộ trưởng, Học viện phải là nơi tập trung những người xuất sắc nhất, bởi nếu “bộ não chiến lược” yếu thì sẽ ảnh hưởng lâu dài đến năng lực dẫn dắt của Bộ và của cả đất nước.

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam: từ công bố nghiên cứu sang trung gian lan tỏa tri thức

Trong năm 2025, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam thuộc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, xuất bản 37 số, gồm 28 số tiếng Việt và 9 số tiếng Anh, trong đó có 7 kỳ chuyên đề; đồng thời vận hành Tạp chí điện tử và các chuyên trang, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chính sách với khoảng 2.400 tin, bài trên Tạp chí điện tử và 200 bài trên Tạp chí in. Tạp chí hiện được 26 Hội đồng Giáo sư ngành và liên ngành tính điểm công trình khoa học, trong đó 20 hội đồng chấm từ 0,75 đến 1 điểm, khẳng định vị thế học thuật quốc gia.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh yêu cầu nâng tầm vai trò và vị thế của Tạp chí Khoa học và Công nghệ trong hệ sinh thái khoa học và công nghệ quốc gia. Ông cũng nêu chủ trương đưa về trực thuộc Bộ để phát huy đầy đủ vai trò, tương tự mô hình của nhiều bộ, ngành đều có một cơ quan báo chí và một tạp chí chuyên ngành.

Về định hướng phát triển, Bộ trưởng yêu cầu Tạp chí đổi mới mạnh mẽ vai trò, chuyển từ nơi công bố kết quả nghiên cứu sang cơ quan trung gian giúp tri thức phục vụ hoạch định chính sách, đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ. Theo đó, các bài nghiên cứu đăng tải trên Tạp chí không chỉ có giá trị học thuật, mà phải trở thành đầu vào cho xây dựng chính sách khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tiêu chuẩn đo lường chất lượng và các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

Theo ông, một nghiên cứu nếu chỉ dừng lại ở việc xuất bản mà không được lan tỏa để trở thành tri thức chung cho ngành, cho đất nước thì giá trị mang lại còn hạn chế. Vì vậy, Tạp chí cần mở rộng đối tượng phục vụ, không chỉ là các nhà khoa học, mà còn hướng tới nhà quản lý, người làm chính sách và doanh nghiệp công nghệ.

Từ đó, việc đánh giá chất lượng Tạp chí không chỉ dựa vào chỉ số trích dẫn hay xếp hạng học thuật, mà cần xem xét mức độ sử dụng trong các văn bản chính sách, đề án, cũng như khả năng được doanh nghiệp và địa phương vận dụng trong thực tiễn.

Về nội dung, Bộ trưởng định hướng Tạp chí cần bổ sung các bài tổng quan chiến lược, phân tích chính sách, dự báo khoa học và công nghệ, kết nối nghiên cứu với công nghệ và thị trường, đồng thời lựa chọn, dịch và giới thiệu các bài viết quốc tế có giá trị. Vai trò của Hội đồng biên tập cũng cần được đổi mới, chuyển từ thuần túy học thuật sang định hướng tri thức, bảo đảm nội dung Tạp chí gắn với các vấn đề lớn của ngành và đất nước.

Kết lại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh yêu cầu chung đối với các đơn vị và đội ngũ cán bộ trong giai đoạn phát triển mới. Theo ông, dù ở lĩnh vực thể chế, chiến lược hay khoa học công nghệ, yếu tố con người vẫn mang tính quyết định.

“Đó phải là những con người có khát vọng lớn, giỏi nghề và đặc biệt là ‘tử tế'”, ông nói, nhấn mạnh đây giá trị cần được nhắc lại nhiều hơn trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, cần đẩy mạnh vai trò của công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, trong việc thay đổi cách làm việc.

Lưu Quý

Nguồn: https://vnexpress.net/bo-truong-nguyen-manh-hung-nam-2025-nganh-khoa-hoc-cong-nghe-co-nhieu-thu-thach-4996388.html

VnExpress Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay