Bức ảnh chụp lại tấm bằng nhuốm màu thời gian, mang dấu ấn lịch sử với chữ ký của vị Hiệu trưởng trường Y huyền thoại – giáo sư Hồ Đắc Di.
Trên trang giấy đã ngả vàng, những dòng chữ đánh máy và viết tay vẫn hiện rõ thông tin về sinh viên Phạm Văn Lạn, người Thái Thuỵ, Thái Bình. Tấm bằng này là khởi đầu cuộc đời binh nghiệp và y nghiệp của vị bác sĩ quân y dũng cảm và hết mình vì đồng đội.
Bằng tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1966 của bác sĩ Phạm Văn Lạn (Ảnh: NVCC).
Trao đổi với phóng viên Dân trí, anh Phạm Đăng Khoa – cháu nội của bác sĩ Phạm Văn Lạn, đồng thời là chủ nhân bài đăng đang lan truyền mạnh mẽ trên mạng xã hội – đã kể lại những câu chuyện chưa từng phai mờ về người ông mà anh luôn tự hào.
Theo anh Khoa, ông nội anh sinh năm Đinh Sửu (1937), dù trong một số giấy tờ hành chính ghi năm sinh là 1939. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng có truyền thống hiếu học và yêu nước, nhiều đời là nhà nho, trí thức và đảng viên.
Thông tin về bác sĩ Phạm Văn Lạn (Ảnh: NVCC).
Sau khi hoàn thành bậc trung học phổ thông, trong bối cảnh đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, với suy nghĩ phụng sự Tổ quốc là điều có ý nghĩa nhất, ông quyết tâm thi đỗ vào Trường Đại học Y Hà Nội. Từ năm 1961 đến năm 1966, ông theo học ngành Bác sĩ đa khoa, thuộc thế hệ bác sĩ được đào tạo trong điều kiện vô cùng gian khó của đất nước thời chiến.
Những năm 1960-1961, phương tiện đi lại rất khó khăn, xe đạp là tài sản rất hiếm, chàng trai trẻ Phạm Văn Lạn phải đi bộ từ Thái Bình lên Hà Nội thi đại học, quãng đường hơn 100km. Sau này, anh trai làm giáo viên ở vùng núi Văn Chấn, Yên Bái, được nhà nước cấp cho 1 chiếc xe đạp, liền nhường xe lại cho em.
Tốt nghiệp ra trường, bác sĩ Phạm Văn Lạn được điều động về Đoàn 559 – đơn vị đảm nhiệm công tác chi viện chiến trường Trường Sơn. Từ năm 1968 đến 1973, ông làm bệnh xá trưởng Đoàn 559 tại Lào, sau đó giữ nhiều vị trí quan trọng như bác sĩ trưởng đội phẫu thuật, đội trưởng đội điều trị tại các binh trạm, sư đoàn khác nhau.
Trong những câu chuyện thuở thơ ấu được ông nội kể lại, anh Khoa còn nhớ rất rõ những ngày tháng trên chiến trường khốc liệt của ông.
Bác sĩ Phạm Văn Lạn những năm cuối đời (Ảnh: NVCC).
“Chiến trường của ông không chỉ có bom đạn mà còn có những đêm dài ám ảnh tâm can. Có những đêm ông một mình trực gác, trông coi hơn 20 thi thể đồng đội phủ khăn trắng trong hầm. Ông bảo không sợ, chỉ buồn và bất lực vì quá nhiều người đã ngã xuống, còn sức người thì có hạn”, anh Khoa hồi tưởng.
Thời kì khó khăn, có lúc vật tư y tế thiếu thốn đến mức không có đủ dịch truyền cho các thương binh, ông đã dùng dừa tươi thay thế, nhờ đó mà giúp cứu sống rất nhiều đồng đội trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt của chiến trường
Một kỷ niệm khác giúp anh Khoa thêm tự hào và yêu thương ông nội là câu chuyện về một đồng đội cũ của ông quê ở Hải Dương.
Trong một trận chiến, người lính này bị đạn địch bắn xuyên qua xương hàm, chéo xuống cổ họng, mất rất nhiều máu và suy hô hấp nghiêm trọng, nếu không can thiệp kịp thời sẽ tử vong.
Trước tình cảnh cái chết cận kề đồng đội, bác sĩ Phạm Văn Lạn đưa ra quyết định can đảm là dùng dao mổ chọc thẳng vào cổ người lính trẻ để mở khí quản tạo đường thở, sau đó tiến hành mổ lấy đạn và khâu vết thương. Ca mổ thành công, người lính được cứu sống kỳ diệu.
“Sau này, khi hòa bình lập lại, năm nào gia đình người lính ấy cũng sang thăm, chúc Tết ông nội tôi. Món quà chỉ là con gà trống thiến, vài cân gạo nếp, nhưng đó là sự tri ân chân thành kéo dài suốt cả cuộc đời”, anh Khoa tâm sự.
Anh Khoa cũng chia sẻ thêm, ông nội anh học cùng khóa với liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm tại Đại học Y Hà Nội. Bác sĩ Phạm Văn Lạn cũng có thói quen viết nhật ký. Tiếc là nhật ký chiến trường đã bị đốt mất từ lâu, chỉ còn nhật ký thời sinh viên.
Nhật ký thời sinh viên của bác sĩ Phạm Văn Lạn (Ảnh: NVCC).
Ông viết về nỗi nhớ thương gia đình, về lý tưởng, khát vọng tuổi trẻ. Từng dòng chữ viết đều chứa đầy tâm tư tình cảm của người thanh niên trí thức lúc bấy giờ.
Gia đình bác sĩ Phạm Văn Lạn hiện vẫn lưu giữ cuốn kỷ yếu tốt nghiệp bác sĩ khóa 1961-1966. Phần giới thiệu viết rất rõ về bối cảnh, hoàn cảnh và những khó khăn của những sinh viên y khoa ngày ấy.
Kỷ yếu bác sĩ y khoa khoá 1961-1966 (Ảnh: NVCC).
Sau 30 năm công tác trong quân đội, bác sĩ Phạm Văn Lạn nghỉ hưu năm 1988 với quân hàm Trung tá. Ông được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý và Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.
Cách đây 2 năm, bác sĩ Phạm Văn Lạn qua đời sau 1 cơn ngừng tim đột ngột. “Sáng hôm ông mất, ông vẫn đo nhịp tim, huyết áp cho bà nội tôi, ghi chép cẩn thận và dặn dò bà uống thuốc đều. Vậy mà tối hôm ấy, ông ra đi, không kịp trăn trối điều gì”, anh Khoa nghẹn ngào.
Anh Khoa bày tỏ, anh khoe tấm bằng tốt nghiệp đại học Y của ông nội không ngoài mục đích chia sẻ giá trị của sự học và tinh thần vượt khó. Tấm bằng ấy có tuổi đời bằng đúng tuổi của bố anh Khoa, là báu vật của gia đình, nhắc nhở các thế hệ sau luôn sống xứng đáng với sự hy sinh và trí tuệ của lớp cha ông đi trước.
Nguồn: https://dantri.com.vn/giao-duc/chang-trai-que-lua-di-bo-hon-100km-len-ha-noi-thi-do-truong-y-60-nam-truoc-20251225215219337.htm

