Một ngày mùa thu tháng 11/1992, chiếc máy bay của Korean Air chở theo ông Nguyễn Phú Bình hạ cánh xuống đường băng sân bay Gimpo. Đó là lần đầu tiên kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975, một đại diện chính thức của Việt Nam đặt chân đến Hàn Quốc để mở cơ quan ngoại giao.
“Tất cả bắt đầu từ con số 0”.
Đại sứ Phú Bình, người khi đó đến Hàn Quốc với tư cách trưởng Văn phòng liên lạc Việt Nam tại Seoul, nhớ lại.
Điều ông không ngờ tới là cảnh tượng xuất hiện ngay khi vừa đặt chân xuống sân bay: một rừng máy ảnh. Rất nhiều nhà báo Hàn Quốc vây kín, những ánh đèn flash chớp liên hồi. Trước đó, ở Seoul, chỉ các phái đoàn từ những cường quốc mới thu hút sự chú ý như thế.
Một cuộc họp báo bất ngờ tổ chức ngay tại sân bay. Những câu hỏi đầu tiên của báo chí xoay quanh ba vấn đề gồm quan điểm về việc quân nhân Hàn Quốc từng tham chiến ở Việt Nam, chính sách đổi mới của Việt Nam và tiềm năng hợp tác giữa hai nước.
Lúc đó, ông Bình băn khoăn không biết nên trả lời báo giới Hàn Quốc bằng ngôn ngữ gì để truyền tải tốt nhất thông điệp. Ông thấy khả năng tiếng Anh của mình chưa thực sự tốt để trả lời suôn sẻ, trong khi lại lo rằng phiên dịch viên sẽ không thực sự nắm bắt được nội dung nếu ông nói bằng tiếng Việt.
Cuối cùng, ông quyết định “liều” chọn tiếng Hàn. Ông từng học tại Bình Nhưỡng, nhưng đã 15 năm tính đến khi đó ông hiếm khi sử dụng tiếng Hàn. Tuy vậy, ông tin đây là cách truyền tải thông điệp hiệu quả nhất.
“Lúc đó tôi cũng hơi băn khoăn, nhưng rồi quyết định cứ liều. Rất may tôi tập trung cao độ, nên những gì tưởng đã quên đều trở lại. Tôi nói được trọn vẹn, đầy đủ”, ông kể.
Trước các phóng viên đang hiếu kỳ chờ đợi, ông khẳng định Việt Nam chủ trương gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, thêm bạn bớt thù. “Việc tôi có mặt ở Seoul hôm nay là minh chứng rõ nét cho điều đó. Nếu chúng ta hợp tác tốt, những kết quả đạt được sẽ giúp bù đắp cho quá khứ”, ông nói.
Cuộc họp báo diễn ra trong không khí cởi mở, tích cực đến bất ngờ. Và khởi đầu ấy đánh dấu một chương mới giữa hai nước.
“Tôi tin đầu xuôi đuôi cũng lọt”.
Đại sứ Phú Bình nêu cảm nghĩ khi đó.
Chiến tranh từng khiến Việt Nam và Hàn Quốc đứng hai bên chiến tuyến. Giai đoạn 1964-1973, hơn 300.000 quân nhân Hàn Quốc đã tham chiến ở Việt Nam với tư cách đồng minh của Mỹ. Hàn Quốc chấm dứt hiện diện và hoạt động quân sự tại Việt Nam năm 1973, sau khi quân nhân Mỹ và các nước tham chiến rút đi.
Đầu những năm 1990, cục diện toàn cầu thay đổi sau khi Liên Xô tan rã. Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nước lớn trên thế giới hướng tới cải thiện quan hệ và thúc đẩy hợp tác.
Tại Đông Bắc Á, Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae-woo khởi xướng “chính sách ngoại giao Phương Bắc”, mở đường quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Seoul muốn ổn định bán đảo Triều Tiên bằng cách cải thiện bang giao với các nước có quan hệ tốt với Bình Nhưỡng, thay vì chỉ có quan hệ với khối phương Tây như trước đây. Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô năm 1990, thiết lập quan hệ với Trung Quốc năm 1992 và mở rộng quan hệ với các nước Đông Âu, Mông Cổ, Trung Á…, đánh dấu cú xoay trục ngoại giao lớn.
Ở phía Việt Nam, đất nước sau chiến tranh vẫn đối mặt với tình trạng bao vây, cấm vận liên quan đến vấn đề Campuchia, đặt ra yêu cầu về điều chỉnh tư duy phát triển và đường lối đối ngoại, Đại sứ Phú Bình chỉ ra.
“Trong nước, chúng ta phải đổi mới, bởi mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp rõ ràng không mang lại kết quả”, ông nói.
Đi cùng với đổi mới trong nước là chủ trương mở cửa về đối ngoại. Việt Nam khi đó xác định rõ đường lối gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, thêm bạn bớt thù, mong muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Tình hình quốc tế lẫn nhu cầu của mỗi bên đều tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập và phát triển quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc. “Cả hai bên đều mong muốn có quan hệ ở một mức độ nhất định. Quan hệ hình thành trong bối cảnh như vậy nên nhận được sự ủng hộ rộng rãi”, Đại sứ nhận xét. “Tất nhiên cũng có những trở ngại, nhưng về cơ bản, mối quan hệ đã phát triển rất thuận lợi”.
Khi Việt – Hàn thiết lập văn phòng liên lạc, đồng minh hàng đầu của Seoul là Mỹ vẫn chưa đồng ý. Đó là trở ngại rất lớn để hai nước có thể có quan hệ ngoại giao đầy đủ, dù cả hai bên đều tỏ rõ thiện chí.
Nhưng ngay khi ông Bình trình thư ủy nhiệm cuối tháng 11/1992, Ngoại trưởng Lee Sang-ok bất ngờ thông báo “chúng tôi đã thuyết phục được Mỹ. Ta có thể nâng cấp quan hệ ngay lập tức”.
Ngày 22/12 năm đó, Ngoại trưởng Lee cùng Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm ký Tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc thiết lập sứ quán tại Việt Nam vào tháng 12/1992 và Việt Nam thiết lập sứ quán tại Hàn Quốc vào tháng 3/1993. Ông Phú Bình trở thành đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc đầu tiên.
Trong cuộc họp báo bất ngờ tại sân bay Gimpo, ông Phú Bình đã phác thảo bức tranh về những lợi ích mà hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc có thể mang lại, không chỉ cho nhân dân hai nước, mà còn cho khu vực và thế giới.
Ông chỉ ra Hàn Quốc là nước phát triển, được coi là một trong 4 con rồng của châu Á. Hàn Quốc có vốn, có công nghệ, có kinh nghiệm phát triển. Ba yếu tố Việt Nam rất cần thì Hàn Quốc đều có.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam có nhiều yếu tố mà Hàn Quốc đang cần. “Thời điểm đó, dân số Việt Nam khoảng hơn 70 triệu người, chưa phải 100 triệu như bây giờ. Trong khi dân số Hàn Quốc chỉ khoảng 40 triệu, thậm chí chưa tới 40 triệu. Như vậy, Việt Nam là một thị trường lớn, gần gấp đôi Hàn Quốc”, ông phân tích.
Quy mô dân số ấy không chỉ tạo ra một thị trường tiêu thụ tiềm năng mà còn là nguồn nhân lực quan trọng. “Nếu Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam, thì nguồn nhân lực là có sẵn. Người Việt Nam khá nhạy bén, tiếp cận nhanh với cái mới, học ngoại ngữ cũng tốt. Vì thế, dân số vừa là thị trường, vừa là nhân lực”, ông nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn có lợi thế về tài nguyên. “Chúng tôi không tự hào rằng mình có quá nhiều tài nguyên, nhưng rõ ràng Việt Nam có thể bù đắp cho Hàn Quốc, vốn là một quốc gia nghèo tài nguyên. Những gì Hàn Quốc cần thì Việt Nam có”, ông nói. Đặc biệt, với vị trí nằm trong khu vực nhiệt đới, Việt Nam có thế mạnh về nông sản, thủy sản và các sản phẩm nhiệt đới – những mặt hàng mà Hàn Quốc có nhu cầu lớn.
Ông Phú Bình cũng đề cập đến định hướng hội nhập khu vực của Việt Nam. “Chúng tôi chủ trương tham gia ASEAN. Khi đó, Việt Nam có thể trở thành cầu nối trên nhiều lĩnh vực trong quan hệ giữa Hàn Quốc với ASEAN”, ông nhấn mạnh.
“Trong cuộc họp báo, tôi đã khẳng định đây là mối quan hệ hai bên cùng có lợi. Nếu xử lý tốt những băn khoăn ban đầu thì hợp tác sẽ chỉ mang lại thêm thuận lợi”, ông kể.
Những cầu nối Việt – Hàn
Quan hệ Việt – Hàn không chỉ được xây bởi các lãnh đạo hai bên, mà còn bởi những con người có trái tim hướng về nhau và những sợi dây kết nối lịch sử đặc biệt.
Từ thế kỷ 12, Lý Dương Côn, hoàng thân nhà Lý Việt Nam, lưu lạc đến Cao Ly, một vương quốc cổ trên bán đảo Triều Tiên. Cao Ly tồn tại từ năm 918 đến 1392 và là tiền thân của các nước Triều Tiên và Hàn Quốc ngày nay. Dòng họ này có một hậu duệ tên Lý Nghĩa Mẫn, từng làm đến chức tể tướng của Cao Ly.
Vào thế kỷ 13, hoàng tử Lý Long Tường, hậu duệ của vua Lý Thái Tổ cũng lưu lạc đến Cao Ly. Ông được phong là Hoa Sơn Quân, tước vị cao trong vương triều, sau khi giúp Cao Ly đẩy lùi quân Mông Cổ. Vua Cao Ly còn ban đất cho ông Lý Long Tường, từ đó lập nên dòng họ Lý Hoa Sơn.
“Đây là một nhân tố khiến hai nước thấy gần nhau hơn”, Đại sứ Phú Bình chia sẻ.
Đến thế kỷ 20, hậu duệ của dòng họ Lý Hoa Sơn là Lý Xương Căn tiếp tục trở thành cầu nối cho hai đất nước. Năm 1994, ông Căn trở về Đền Đô ở Bắc Ninh, nơi thờ dòng họ Lý, để nhận tổ tiên và quê hương.
“Khi tôi trở về thăm quê lần đầu, tôi rất cảm động. Đứng trước bàn thờ tổ tiên ở Đền Đô, tôi đã hứa với tư cách hậu duệ nhà Lý sẽ nỗ lực đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam”, ông nói.
Ông Căn cho hay trong bài phát biểu đầu tiên của Tổng thống Hàn Quốc Kim Yong-san sau khi hai nước thiết lập quan hệ, ông Kim từng nhắc tới mối nhân duyên này.
“Đây là nhân duyên lịch sử giữa hai nước, giúp mối quan hệ hai bên trở nên giống như anh em ruột thịt. Điều đó rất đặc biệt”, ông Lý Xương Căn nói. “Tôi nghĩ vì vậy mà chính phủ và người dân Hàn Quốc đều cảm thấy không có lý do gì để phản đối quan hệ với Việt Nam. Mọi người đều đồng lòng ủng hộ”.
Kể từ năm 2000, ông Căn đã chuyển sang Việt Nam sinh sống và được cấp quốc tịch năm 2010. Ông đảm nhận vai trò Đại sứ Du lịch Việt Nam tại Hàn Quốc, trở thành biểu tượng đẹp cho mối quan hệ giữa hai nước.
Không chỉ ông Lý Xương Căn, còn có những người Hàn Quốc khác đã để lại ấn tượng đặc biệt với Đại sứ Phú Bình trong những năm công tác tại nước bạn.
Đại sứ kể người Hàn Quốc đầu tiên ngoài quan chức sở tại mà ông gặp sau khi tới Seoul là một giáo sư “rất yêu Việt Nam” tên Cho Jae-hyun. Chỉ một cuộc điện thoại từ Đại sứ đã khiến ông Cho vui mừng và lập tức tới gặp.
Chính ông Cho đã giúp Đại sứ vẽ ra bức tranh tổng quát về Hàn Quốc lúc bấy giờ, từ bối cảnh chính trị, sự thay đổi chế độ, cho đến những cơ quan và nhân vật có thể thúc đẩy quan hệ hai nước. Những thông tin ấy là nền tảng để ông từng bước tiếp xúc đúng người, đúng nơi, để tạo dựng mối quan hệ ngoại giao trong giai đoạn ban đầu còn nhiều dè dặt.
Những ký ức chiến tranh lại trở thành động lực để nhiều người Hàn mong muốn hàn gắn. Một trong số họ là ông Kim Jin-sun, cựu chỉ huy đại đội thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ, đơn vị từng tham chiến tại Việt Nam. Sau chuyến thăm lại chiến trường xưa, ông viết hồi ký về cuộc chiến và trải lòng mong mọi người hiểu về đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng kiên cường, và hiểu “nỗi ân hận trước những gì tôi và các chiến hữu gây ra”.
Trong một lần gặp Đại sứ Phú Bình tại Seoul, ông Kim thừa nhận “tôi cảm thấy hối lỗi” và bày tỏ “mong hai nước bước sang chương mới”.
Một người khác mà Đại sứ Phú Bình thấy khó có thể quên là ông Ahn Hee Wan, một trong ba nhân viên ngoại giao Hàn Quốc từng bị Việt Nam giữ sau năm 1975 do có liên quan đến an ninh. Việt Nam đã trả tự do cho họ năm 1980.
Ông Ahn Hee Wan đã dành nhiều năm tự nguyện dịch các văn kiện, báo chí chính thống của Việt Nam sang tiếng Hàn, phổ biến cho các cơ quan, học giả Hàn Quốc như một cách đóng góp cho quan hệ song phương.
Chỉ vài tuần sau khi tới Seoul, Đại sứ Bình tiếp ông Ahn tại sứ quán. Ông Ahn mang tới những tài liệu mà ông đã dịch, bày tỏ rằng trách nhiệm đóng góp cho quan hệ song phương của bản thân đã hoàn thành khi Việt Nam giờ đây đã có sứ quán ở Hàn Quốc.
“Tôi vội bày tỏ mong muốn ông ấy sẽ tiếp tục công việc ý nghĩa này. Nghe vậy, ông Ahn rất phấn khởi và tiếp tục cộng tác chặt chẽ với sứ quán trong các hoạt động sau này”, Đại sứ cho biết thêm.
Dù Ahn Hee Wan từng bị giam giữ nhiều năm, ông không hề mang oán hận. Khi được hỏi có còn cay đắng về quãng thời gian trong trại giam hay không, ông trả lời rất thẳng thắn: “Nếu các ông xử lý tôi tại Việt Nam thì tôi cũng phải chịu. Lúc đó cả nước Việt Nam đều khổ, những người lính canh gác chúng tôi còn khổ hơn. Khẩu phần của họ đâu có bằng chúng tôi, nên tôi vẫn biết ơn Việt Nam”.
Có lần ông Ahn mời vợ chồng Đại sứ tới dự tiệc tân gia, cách Seoul khoảng 30 km, vào ngày mưa gió dữ dội. Khi vợ chồng ông Phú Bình đến nơi thì bữa tiệc đã gần tàn, nhưng ông Ahn vô cùng vui mừng, giới thiệu với mọi người: “Đây là đại sứ mới của Việt Nam”.
Một người bạn cũ từng ngồi tù cùng ông Ahn nói với ông Phú Bình: “Tôi từng bảo ông ấy đừng dịch tài liệu vì chẳng ai để ý đâu. Nhưng hôm nay chứng kiến Đại sứ đến dự tân gia, tôi mới thấy ông ấy không hề làm việc vô ích. Ông ấy đã làm điều tốt và được ghi nhận”.
“Đó là khoảnh khắc khiến tôi thực sự tin rằng có những con người từng ở ‘phía bên kia’, nhưng bằng thiện chí và nhân văn, họ đã trở thành những người bạn chân thành của Việt Nam”, ông Phú Bình nhấn mạnh.
Một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho thiện chí bù đắp quá khứ của Hàn Quốc là viện trợ không hoàn lại cho những vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề ở miền Nam, đặc biệt là miền Trung. Nổi bật nhất là dự án Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam với tổng viện trợ lên tới hơn 30 triệu USD.
Quảng Nam là khu vực từng có nhiều quân nhân Hàn Quốc tham chiến và để lại nhiều vết thương chiến tranh. Cho đến những năm 2000, các cơ sở hạ tầng y tế tại đây vẫn còn nhiều thiếu thốn. Điều đó đã thúc đẩy Việt Nam chọn đề xuất với Hàn Quốc về dự án viện trợ tại tỉnh miền Trung này.
Ông Phạm Tiến Vân, đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc nhiệm kỳ 2005-2010, kể rằng ý tưởng ban đầu không được thông qua khi đề xuất với chuyên viên Hàn Quốc, bởi quy mô viện trợ không hoàn lại hơn 30 triệu USD cho Việt Nam lúc đó là “chưa từng có”. Tuy nhiên, trong một chuyến thăm của lãnh đạo Việt Nam tới Hàn Quốc giai đoạn đó, đề xuất được trình bày trực tiếp với Tổng thống Roh Moo-hyun và lập tức được chấp thuận.
Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam đã khánh thành và đi vào hoạt động từ tháng 7/2012 sau 5 năm triển khai xây dựng, trở thành cơ sở y tế hiện đại bậc nhất ở miền Trung – Tây Nguyên thời bấy giờ.
“Dù không nói ra, mọi người đều hiểu họ muốn bù đắp những vết thương chiến tranh cho Việt Nam”, ông Vân cho biết.
Mối quan hệ tốt đẹp còn hiện hữu qua những biểu tượng đời thường: con đường Yongsan ở Quy Nhơn, hay con phố Quy Nhơn giữa lòng Seoul. Những cái tên đó là minh chứng cho câu chuyện về hai dân tộc từng đối đầu nhưng nay chọn bước về phía nhau và trở thành các đối tác quan trọng hàng đầu.
Trong chuyến thăm cấp nhà nước tới Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm hồi tháng 8, Tổng thống Lee Jae-myung khẳng định Hàn Quốc luôn coi Việt Nam là đối tác trọng tâm trong triển khai các chính sách đối ngoại tại khu vực.
Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm, Đại sứ Nguyễn Phú Bình cho biết: “Chúng tôi lạc quan, nhưng cũng không thể tưởng tượng quan hệ lại vượt quá mong đợi như vậy”.
Thanh Tâm
Nguồn: https://vnexpress.net/cu-lieu-o-san-bay-mo-duong-cho-hon-30-nam-quan-he-viet-han-4995171.html







