Tiến sĩ Cao Văn Sơn đánh giá, việc xây dựng và vận hành hiệu quả trung tâm khoa học, thu hút nhiều chuyên gia, cùng chính sách cởi mở, tạo nền tảng cho tỉnh phát triển khoa học cơ bản và chuyển giao công nghệ.
Tiến sĩ Cao Văn Sơn hiện dẫn dắt nhóm nghiên cứu về neutrino tại Viện Khoa học và Giáo dục liên ngành (IFIRSE) thuộc Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE), TP Quy Nhơn (nay phường Quy Nhơn Nam).
Ông trở về Việt Nam năm 2022, sau 13 năm tham gia các dự án nghiên cứu quốc tế về neutrino tại Mỹ (5 năm) và Nhật Bản (8 năm). Chuyên gia chia sẻ với VnExpress về 4 năm làm công tác nghiên cứu tại FIRSE và các định hướng để phát triển lĩnh vực khoa học cơ bản ở địa phương.
Tiến sĩ Cao Văn Sơn chia sẻ với VnExpress. Ảnh: Trần Hóa
– Tại sao ông chọn Quy Nhơn khi trở về Việt Nam?
– Năm 2012, khi đang học tiến sĩ ở Mỹ, tôi tham dự hội thảo Vietnus2012 được tổ chức ở Quy Nhơn do GS Karol Lang. Lúc đó, Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE) đang được xây dựng và GS Lang đã gợi ý rằng đây có thể là nơi lý tưởng để phát triển khoa học neutrino tại Việt Nam.
Tôi đặc biệt ấn tượng với tâm huyết của GS Trần Thanh Vân và môi trường nghiên cứu độc đáo mà GS mong muốn gây dựng tại Quy Nhơn. Là nơi thúc đẩy nghiên cứu liên ngành, tự do học thuật, và kết nối với các nhà khoa học hàng đầu thế giới.
Còn gì tuyệt hơn khi có thể tiếp tục làm khoa học ngay chính mảnh đất quê hương mình? Chính vì thế, tôi nung nấu ý định phát triển nhóm nghiên cứu neutrino ở Việt Nam từ sau hội thảo, và ICISE có những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển này.
Năm 2017, tôi cùng bốn giáo sư người Nhật Bản (GS Tsuyoshi Nakaya, đại học Kyoto, GS. Yuichi Oyama, viên KEK, GS. Makoto Miura đại học Tokyo và GS. Atsumu Suzuki đại học Kobe) tổ chức lớp học neutrino đầu tiên và ngày 17/7/2017 đánh dấu sự ra đời của nhóm nghiên cứu Neutrino ở viện IFIRSE. Lúc đó tôi vẫn đang làm việc ở Nhật Bản và phát triển nhóm từ xa.
Năm 2022, sau khi hoàn tất chương trình tiến sĩ ở Mỹ và làm việc tại Nhật Bản, tôi quyết định về Việt Nam và gia nhập IFIRSE, dẫn dắt nhóm nghiên cứu về neutrino.
Lý do chính là tôi không thấy mình thuộc về một nền văn hóa khác và luôn hướng về quê hương Việt Nam. Tôi thấy mình có khả năng nghiên cứu độc lập cũng như tiếp tục hợp tác quốc tế sau khi trở về. Bên cạnh đó Quy nhơn là một thành phố xinh đẹp với những con người thân thiện. Tôi cũng không thể nào trở về nếu như không có sự đồng thuận của gia đình mình.
– Công việc của ông tại IFIRSE diễn ra như thế nào?
– Tôi cùng một số thành viên tiếp tục tham gia nghiên cứu với các thí nghiệm neutrino quốc tế được đặt ở Nhật Bản là thí nghiệm T2K (từ năm 2017), thí nghiệm Super-Kamiokande (từ năm 2021) và gần đây nhất là thí nghiệm Hyper-Kamiokande (từ tháng 10/2025).
Bên cạnh việc xử lý số liệu liên quan đến vật lý, nhóm tôi phụ trách chính một hệ thống máy dò liên quan đến mức độ an toàn phóng xạ hạt nhân của thí nghiệm. Khi hệ thống lấy dữ liệu, hoặc là chúng tôi sang Nhật Bản trực tiếp hoặc là xử lý online.
Nhóm báo cáo kết quả hai lần mỗi tuần và phỏng đoán chính xác kết quả đo mức độ phóng xạ thông qua số liệu ghi nhận trước đó. Phía Nhật Bản đã rất ngạc nhiên về những kết quả chính xác đó. Chúng tôi cũng phát triển những hệ máy mới ngay tại ICISE và được phép cài đặt ở Nhật Bản.
Tôi tiếp tục phát triển những nghiên cứu độc lập của nhóm nghiên cứu. Những hướng này bao gồm vật lý neutrino, các tính chất và ứng dụng của các cảm ứng siêu nhạy sáng mà chúng tôi đã có kinh nghiệm làm việc trong nhiều năm. Những cảm ứng này có thể dùng để phát triển một số công nghệ lượng tử là một hướng mà chúng tôi gần đây quan tâm.
Chúng tôi hỗ trợ đào tạo các bạn sinh viên Việt Nam và quốc tế. Chương trình hiệu quả khi nhiều sinh viên từ đây đã tiếp tục con đường nghiên cứu neutrino hay các ngành liên quan ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản…, duy trì lớp học neutrino thường niên và trại huấn luyện phần cứng để hỗ trợ các bạn sinh viên.
Nhóm đang thực hiện các đề tài theo hướng chuyển giao công nghệ cho sở Khoa học và Công nghệ. Đây là điểm tương đối khác biệt đối với một nhóm nghiên cứu khoa học cơ bản. Tuy vậy những nền tảng vật lý và thực nghiệm giúp chúng tôi có những bước đi đầu tiên trong việc thực hiện đề tài này.
– Sau 4 năm làm việc tại ICISE, điều gì khiến ông hài lòng nhất?
– Với tôi việc duy trì và phát triển một nhóm nghiên cứu neutrino thực nghiệm ở ICISE và đóng góp thiết thực cho các thí nghiệm quốc tế lớn với những kết quả được nhiều người quan tâm cũng có thể xem là một đóng góp. Các thí nghiệm T2K và Super-Kamiokande đã có những kết quả nổi bật được đăng trên những tạp chí Nature, Physical Review Letter. Ngoài ra, nhóm cũng có những công bố riêng, được đăng trên các tạp chí uy tín.
Những kết quả đó có thể biến thành công nghệ, phục vụ đời sống hoặc nó phục vụ nhu cầu tìm hiểu về thế giới. Việc đưa một số nhóm nghiên cứu Việt Nam cùng tham gia vào thí nghiệm lớn đang xây dựng là Hyper-Kamiokande, tôi cho cũng là một đóng góp. Tôi rất vui khi nhiều sinh viên mình hướng dẫn đã có những bước tiến trong con đường học thuật.
Nhóm có phát triển riêng về phần cứng liên quan đến các hệ điện tử để làm việc với các loại cảm ứng nhạy sáng; tạo ra những bộ kit đầu tiên để phát hiện các bức xạ, có thể là khởi đầu cho những thứ lớn hơn.
Bên cạnh đó chúng tôi đã được phê duyệt thực hiện hai đề tài khoa học và công nghệ là “Ứng dụng công nghệ huỳnh quang kết hợp với camera quang phổ để kiểm định nhanh hàm lượng vitamin B2 và một số chất chỉ định khác trong sữa dạng lỏng” và đề tài “Ứng dụng công nghệ huỳnh quang đa chức năng để phát hiện nhanh vi nhựa trong môi trường nước”. Đây có thể xem là cơ hội để phát triển một hệ sinh thái đặc biệt kết nối khoa học cơ bản và công nghệ ứng dụng.
Phòng làm việc của tiến sĩ Cao Văn Sơn tại ICISE. Ảnh: Trần Hóa
– Ông đánh giá môi trường làm việc, nghiên cứu tại Việt Nam thế nào?
– Tôi xin cảm ơn GS Trần Thanh Vân. Việc một trung tâm tư nhân đầu tư phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản là điều không mấy ai dám làm. Ở IFIRSE, tôi tự do trong nghiên cứu và không có áp lực nào về công bố khoa học; có thể phát triển song song cả khoa học và một số công nghệ ứng dụng. Những đề xuất của tôi cũng được ban lãnh đạo xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Viện IFIRSE nằm ở thung lũng Quy Hòa, tương đối tách biệt với trung tâm Quy Nhơn, do vậy tôi cũng có thể tập trung vào công việc mà không có những vướng bận khác.
Tuy nhiên, kinh phí vận hành của IFIRSE là rất ít ỏi và do đó việc mở rộng nhân lực cũng như mua sắm thiết bị nghiên cứu gặp rất nhiều khó khăn. Do lực lượng nghiên cứu mỏng, việc trao đổi học thuật, nhu cầu cơ bản của các nhà khoa học, thường chỉ diễn ra thông qua các kênh hợp tác quốc tế và thông các hội nghị và hội thảo. Việc thu hút sinh viên cũng gặp nhiều khó khăn do vị trí địa lý cách xa các trường đại học lớn.
Tôi hy vọng trong thời gian tới, với sự hỗ trợ từ nhà nước và tỉnh Gia Lai, sẽ có thể mở rộng hơn, có nhiều kinh phí hơn để vận hành và hỗ trợ nghiên cứu.
– Những thuận lợi, khó khăn của tỉnh Gia Lai trong phát triển khoa học cơ bản và chuyển giao công nghệ là gì, thưa ông?
– Dựa trên quan sát trong lĩnh vực chuyên môn của tôi, lãnh đạo tỉnh đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế tri thức hướng đến việc ứng dụng công nghệ cao để tăng giá trị nông nghiệp và công nghiệp cũng như hướng đến phát triển đô thị thông minh và bền vững.
Một trong các nền tảng cho sự phát triển đó là khu đô thị khoa học Quy Hòa với trung tâm ICISE, trung tâm ExploraScience và các công ty phần mềm như FPT, TMA và đề án xây dựng trung tâm nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Vũ Trụ.
Thuận lợi nữa đến từ “cầu nối ICISE”, thu hút hàng nghìn nhà khoa học và chuyên gia quốc tế hàng năm. Để phát triển khoa học cơ bản và chuyển giao công nghệ, việc trao đổi học thuật quốc tế với các chuyên gia trong và ngoài nước là cực kỳ quan trọng. ICISE đã và đang mang những nhà khoa học đến Gia Lai.
Bên cạnh đó, nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng như việc sát nhập tỉnh với ngân sách tăng lên đáng kể là những tín hiệu tích cực.
Về khó khăn, lớn nhất, có lẽ đến từ sự thiếu hụt lực lượng các nhà khoa học có khả năng nghiên cứu chuyên sâu và lực lượng trẻ kế cận.
So với các trung tâm lớn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng…việc thu hút người có năng lực về làm việc ở Gia Lai là rất khó khăn bởi nhiều yếu tố như lương bổng, cơ hội việc làm cho gia đình, trường học chất lượng cho con cái.
Ngoài ra, việc có một trường đại học chất lượng cao với những sinh viên xuất sắc là nguồn lực không thể thiếu để phát triển khoa học ở địa phương. Chính vì vậy, cần phát triển đại học và nghiên cứu sau đại học.
Để chuyển giao công nghệ được hiệu quả, cần tạo ra nhiều hơn kênh đối thoại hơn giữa các bên (nhà quản lý, nhà sản xuất, các startup, các chuyên gia và nhà khoa học có chuyên môn liên quan) cũng như những cơ chế thông thoáng cho sự hợp tác đó.
Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành. Ảnh: ICISE
– Ông có đề xuất gì để Gia Lai phát triển khoa học cơ bản và chuyển giao công nghệ trong thời gian tới?
– Đây là bài toán lớn. Tôi cho rằng về định hướng lâu dài, cốt lõi vẫn là con người và vấn đề giáo dục các cấp, đặc biệt trong các lĩnh vực STEAM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật, toán học) cần phải được chú trọng và xây dựng có độ sâu và tiến kịp các quốc gia phát triển. Cải thiện chất lượng đại học và sau đại học.
Về kế hoạch ngắn hạn, song song việc xây dựng cơ sở hạ tầng như khu đô thị khoa học Quy Hòa, việc thu hút và hỗ trợ những người có năng lực chuyên môn cao, bao gồm các nhà khoa học người Việt và học giả nước ngoài, là cần thiết.
Việc hỗ trợ tăng cường hợp tác quốc tế để nâng tầm các nhóm nghiên cứu trong tỉnh cũng giúp tạo nên những động lực đặc biệt cho sự phát triển. Tỉnh Gia Lai đang có những nền tảng và định hướng phát triển khoa học cơ bản tương đối rõ ràng và tôi hi vọng sẽ có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian sắp tới.
Trần Hóa
Nguồn: https://vnexpress.net/gia-lai-nhieu-thuan-loi-phat-trien-khoa-hoc-co-ban-va-chuyen-giao-cong-nghe-4992843.html

