Chủ Nhật, Tháng mười hai 28, 2025
HomeGiải TríHồi ký 'vua vũ khí' Trần Đại Nghĩa (kỳ cuối): Chế thuốc...

Hồi ký ‘vua vũ khí’ Trần Đại Nghĩa (kỳ cuối): Chế thuốc pháo từ phân dơi

Thời chiến, Giáo sư Trần Đại Nghĩa từng dùng phân dơi trong hang núi, trộn với diêm sinh và than để tạo thuốc đen cho súng SKZ.

Hồi ký của Giáo sư Trần Đại Nghĩa được phát hành nhân kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/2025), thuật lại cuộc đời, sự nghiệp của “vua vũ khí”. Dịp này, VnExpress đăng một số trích đoạn, tên các phần do tòa soạn đặt.

Chuyển lên vùng Chợ Mới

Chúng tôi chỉ ở Phúc Trìu (Thái Nguyên) một thời gian. Đến giữa năm 1949, nhận thấy nơi này quá gần mặt trận, không còn bảo đảm an toàn cho sản xuất, cấp trên chỉ thị chuyển toàn bộ lực lượng lên Chợ Mới và đi sâu thêm vài km nữa. Các xưởng quân giới cũng được cơ động về đây. Thời kỳ này, anh em liên hệ với địa phương thuận lợi hơn, tiếp tục sản xuất hàng loạt loại vũ khí đã có, đồng thời phát triển thêm những loại vũ khí mới. Bazôca lúc này coi như đã hoàn chỉnh, chỉ cần sản xuất theo yêu cầu chiến trường, vì ngoài dùng để bắn xe tăng, thiết giáp, nó còn rất nhiều công dụng khác như tôi đã trình bày trước đó.

Ông Trần Đại Nghĩa (1913-1997) là giáo sư, viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học.

Ông Trần Đại Nghĩa (1913-1997) là giáo sư, viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học. Ảnh: Bảo tàng Quốc gia Việt Nam

Giai đoạn này, Quân giới 10 và Quân giới 1 được thống nhất thành Quân giới Liên khu 1, do anh Nguyễn Bá Lộc phụ trách (anh đã từ trần tháng 10/1982). Bộ phận này được bố trí tại Châu Tự Do (thuộc huyện Đại Từ, trên trục Thái Nguyên – Tuyên Quang) để chúng tôi chỉ đạo được thuận tiện hơn. Trong việc nghiên cứu vũ khí mới, đặc biệt là súng phóng bom, chúng tôi giao các xưởng của Liên khu 1 ở Châu Tự Do nghiên cứu theo hướng dẫn của Cục. Khi sản phẩm được Hội đồng kỹ thuật của Cục và Bộ Tổng Tham mưu đánh giá đạt yêu cầu, chúng tôi mới cho phép sản xuất hàng loạt.

Lúc này, công sự của địch đã được gia cố dày và kiên cố hơn nhiều. Súng cối 81 mm không còn đủ sức phá. Do đó, chúng tôi giao nhiệm vụ: phải chế tạo được một loại súng phóng bom nhẹ, chỉ nặng khoảng 20 kg để chiến sĩ mang vác cơ động trong rừng núi. Quả bom nặng khoảng 10 kg (trong đó có trên 6 kg thuốc nổ). Vì nòng và bệ súng bằng kim loại sẽ quá nặng, nên bệ được làm bằng gỗ nhưng được gia cường bằng thép, bảo đảm chắc chắn. Trước khi bắn, chiến sĩ phải ghì chặt các chân súng xuống đất cho ổn định. Nòng và giá đỡ chỉ khoảng 10 kg, cả khẩu súng vừa đủ 20 kg, rất gọn nhẹ. Một vũ khí quan trọng khác là súng cối 120 mm.

Loại này có hai chế độ:

1. Bắn cầu vồng như cối 81 mm.

2. Bắn thẳng như pháo không giật.

Cách sử dụng cũng khác: phải lắp đạn trước rồi mới bắn, chứ không thả từ miệng nòng xuống như cối 60 hoặc 81. Đặc biệt ở Quân khu 3, do sông Hồng rộng lớn, rất cần vũ khí tầm xa để đánh tàu chiến địch. Anh em đã dùng cối 120 mm bắn thẳng: đặt sẵn khẩu súng trên bờ, đợi tàu địch tiến vào tầm thì bắn. Với sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, bộ đội thay đổi đường ngắm để đón trước mục tiêu; quả bom lướt trên mặt nước, chạm vỏ tàu là nổ, hiệu quả rất cao. Sau này, cối 120 mm còn giữ vai trò quan trọng trong giải phóng Bắc Kạn: chỉ bằng 5 khẩu súng và 10 viên đạn, bộ đội ta đã buộc địch phải tháo chạy.

Còn một loại nữa là SKZ 60 (tôi đã nói qua ở phần trên). Sau khi địch buộc phải trở lại phòng ngự, thấy ta có Bazôca, chúng lập tức tăng độ dày công sự bê tông cốt thép lên tới 80 cm. Bazôca không còn đủ sức xuyên phá. Đại bác có thể dùng, nhưng ta không có nhiều, mà lô cốt dày như thế thì ngay cả đại bác cũng khó mà phá xuể.

Vấn đề đặt ra cho chúng tôi là: làm sao chế tạo được một loại súng nhẹ, cơ động, tiện mang vác nhưng lại có hỏa lực đủ mạnh để bắn thủng công sự kiên cố như vậy? Tôi nghĩ ngay đến khẩu SKZ 60 mm. Nhưng có một khó khăn lớn: thuốc phóng. Thuốc pháo của SKZ phải là thuốc đen, không thể dùng thuốc “con bài” cũ của Pháp (vừa không đủ số lượng, vừa không đúng loại).

Sau khi tìm tòi và suy nghĩ, chúng tôi xác định được một giải pháp hiệu quả nhất: dùng phân dơi. Trong phân dơi có salpêtre (kali nitrat). Khi trộn salpêtre với diêm sinh (soufre) và than theo tỷ lệ thích hợp, ta sẽ có loại thuốc đen rất tốt. Thuốc này lại phải ép thành bánh với áp lực rất lớn. Như vậy phải giải quyết hai loại nguyên liệu: diêm sinh và salpêtre.

• Diêm sinh có thể tổ chức mua ở vùng tạm chiếm thuộc Liên khu 3.

• Ngoài ra, từ quặng kẽm cũng có thể nấu để thu lại diêm sinh khi nó bốc hơi. Ta có nguồn kẽm ở Chợ Điền, nên giải quyết phần này không quá khó.

Nhưng phân dơi để lấy salpêtre mới là vấn đề nan giải: khan hiếm, khó thu, lại phải lấy hàng tấn.

Ở vùng Hữu Lũng (Bắc Giang), trong các hang núi có những đàn dơi sinh sống nhiều đời. Phân dơi tích tụ từng lớp trên nóc hang, năm này qua năm khác, tạo thành một lớp dày và cứng, chứa lượng salpêtre đáng kể. Việc khai thác rất nguy hiểm vì phải trèo lên tận nóc hang cao, lại phải đục lớp phân cứng này xuống. Rõ ràng chỉ trông vào lực lượng quân giới – vốn rất ít – thì không thể nào làm nổi. Chỉ có dựa vào dân mới giải quyết được.

Để đáp ứng yêu cầu cấp bách của quân đội, các địa phương ở Hữu Lũng (Bắc Giang) đã vận động nhân dân đi lấy phân dơi đem về phục vụ sản xuất vũ khí. Đồng bào hưởng ứng rất nhiệt tình. Họ vượt đèo, lội suối, vào tận những hang đá xa, sâu và hiểm trở để khai thác phân dơi đem nộp cho quân giới. Nhờ sự giúp đỡ vô cùng quý báu ấy, đồng bào đã cung cấp cho chúng tôi hàng chục tấn phân dơi, đáp ứng đầy đủ nhu cầu để sản xuất thuốc đen cho SKZ 60 phục vụ chiến đấu.

Hôm nay, khi kể lại sự việc này, tôi lại nghĩ đến công lao to lớn của nhân dân ta; nghĩ đến sự hy sinh, gian khổ của đồng bào trong cuộc kháng chiến cứu nước, cũng như việc đồng bào đã hiến cho quân giới tất cả những gì có thể hiến được: từ những đồ đồng trong gia đình như nồi, mâm… đến cả lư hương thờ cúng; rồi các vật bằng sắt, thép, gang, và cả việc thu hồi vỏ hộp đồ ăn, vỏ đạn do địch bắn bỏ lại… Tôi thấy cần nói thêm điều này: hồi tôi còn ở Pháp, tôi thấy ngành kỹ thuật công nghiệp nặng của họ phục vụ rất đắc lực cho quốc phòng. Nhưng Việt Nam ta lúc kháng chiến hoàn toàn chưa có công nghiệp nặng, và nếu có thì địch cũng sẽ phá hủy ngay bằng bom hay những loại vũ khí khác.

Loại súng không giật SKZ trước đây trên thế giới chưa hề được sản xuất; không một nước nào có loại súng này – tất cả đều là súng khi bắn đều giật mạnh. Như tôi đã nói, chúng tôi phải nghiên cứu suốt hai năm mới hoàn thành. Trên thế giới không có mẫu, cũng không có tài liệu nào về loại vũ khí này. Chúng tôi chỉ dựa vào nhu cầu chiến đấu thực tế, từ đó suy nghĩ, thử nghiệm, sáng tạo: từ lý thuyết, qua thực nghiệm, rồi thiết kế và sản xuất ra SKZ. Cùng với việc tận dụng phân dơi để làm nguyên liệu salpêtre, nghiên cứu cách ép thuốc đen thật cứng…, việc sản xuất SKZ 60 đã thành công, và phát huy tác dụng rất lớn.

Gần đến chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi gửi vào Liên khu 5 10 khẩu SKZ 60 và 100 viên đạn, kèm theo bản hướng dẫn cách bắn. Hồi đó, trong Nam cũng như ngoài Bắc đều đã có bazôca nên chúng tôi không gửi loại đó nữa. Sau này, anh em báo ra là bắn rất tốt. Ở chiến trường Liên khu 5 khi ấy, địch giăng hàng ngàn pháo đài để chặn ta và giữ đất chiếm đóng. Nếu đánh trực diện toàn bộ hệ thống pháo đài ấy thì ta khó đủ lực.

Anh em đã vận dụng cách đánh mưu trí, vào tâm lý: chỉ đánh cấp tập vài pháo đài ở đầu và giữa cụm, rồi sau đó đi lại nghễu nghện cho địch nhìn thấy, như muốn “nhắn” rằng: nếu không rút thì sẽ bị tiêu diệt hết. Địch mắc mưu, hoảng sợ, các pháo đài còn lại tự báo cho nhau rút. Như vậy, chỉ tiêu diệt một phần nhỏ mà ta buộc địch phải bỏ toàn bộ hệ thống pháo đài, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và hoạt động.

Đến cuối năm 1949, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho chúng tôi rằng tầm bắn 500 m của các loại vũ khí hiện có không còn phù hợp với yêu cầu chiến đấu và chiến thuật, cần phải có loại vũ khí tầm xa hơn. Muốn bắn xa hơn thì phải nghiên cứu chế tạo cỡ nòng 200 mm. Nhưng công nghiệp luyện kim của ta lúc đó hoàn toàn chưa có, lấy gì để làm?

Tôi họp anh em lại hỏi ý kiến. Anh em đề xuất sử dụng các bình ôxy (oxyzone) mà các xưởng cơ khí, xưởng sửa chữa tàu của Pháp bỏ lại. Vỏ bình ôxy rất dày, chịu được áp lực tới 150 kg/cm². Tôi đồng ý và nói anh em đi khiêng về để nghiên cứu. Khó khăn đầu tiên là các bình này không đồng nhất kích thước: có bình đường kính 200 mm, có bình 210 mm, thậm chí 230 mm. Như vậy, muốn tận dụng được hết thì phải sản xuất nhiều cỡ súng khác nhau. Đó cũng chính là đặc điểm “tự xoay xở” rất Việt Nam: làm súng trước, làm đạn sau.

Về đạn, mỗi viên nặng hơn 30 kg. Khó khăn nữa là thuốc nổ. Ta không có đủ thuốc phù hợp để tạo sức phóng lớn. Vì vậy lại nảy sinh nhiệm vụ mới: phải sản xuất chất clo-rát bằng điện phân, vì trong thuốc đen nếu có thêm clo-rát thì sức nổ sẽ rất mạnh. Chúng tôi đã làm và thành công. Loại vũ khí mới này chúng tôi chỉ gọi chung là “súng lớn”, vì nó gồm nhiều cỡ tùy theo kích thước bình ôxy. Đây là loại súng chuyên dùng để công phá các pháo đài kiên cố của địch; đạn rất nặng, sức công phá rất mạnh. Trong trận đánh Phố Lu, mới bắn một phát, địch đã phải bỏ chạy hết.

Tầm bắn có thể đạt hai km. Cách sử dụng tương tự cối 120 mm: nạp đạn trước, bóp cò cho ngòi nổ, và đạn bay đi rồi rơi xuống mục tiêu. Chiến tranh thế giới thứ Hai, Liên Xô cũng có loại cối 160 mm hoạt động theo nguyên lý này. Nhược điểm của súng là nổ rất to. Nhưng điều đó cũng khắc phục dễ dàng: chiến sĩ chỉ cần nhét bông gòn hoặc giẻ vào tai là được. Ngoài SKZ 60, súng lớn và súng phóng bom, chúng tôi còn liên tục phát triển các loại mìn nổ chậm, mìn cháy chậm phục vụ đơn vị đặc công. Như vậy, năm 1949 đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Quân giới: hàng loạt loại vũ khí mới, cỡ lớn, tầm xa, công phá mạnh ra đời, tạo cơ sở quan trọng cho các chiến dịch từ năm 1950 trở đi.

(Trích Hồi ký Giáo sư Trần Đại Nghĩa)

Kỳ 1, Hết.

Nguồn: https://vnexpress.net/hoi-ky-vua-vu-khi-tran-dai-nghia-ky-cuoi-che-thuoc-phao-tu-phan-doi-4999030.html

VnExpress Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay