Tầm nhìn mới trong dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng khẳng định sự chuyển dịch chiến lược từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, tài nguyên và lao động sang mô hình dựa trên tri thức, công nghệ, dữ liệu và sáng tạo.
Nếu như suốt hơn một thập kỷ qua, ba đột phá chiến lược: thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực đã dẫn dắt tiến trình phát triển đất nước, thì bước sang giai đoạn 2026–2030, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng bổ sung đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là bước đổi mới và phát triển tư duy trong hoạch định phát triển của Đảng, với lần đầu tiên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và dữ liệu số được đưa vào mô hình phát triển kinh tế, thay cho mô hình dựa vào tài nguyên, vốn và lao động.
Động cơ của năng suất
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học công nghệ trở thành nguồn lực sản xuất và cạnh tranh chiến lược. Ở cấp độ quốc gia, năng lực làm chủ công nghệ quyết định năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) – chỉ số phản ánh sức sáng tạo nội sinh của nền kinh tế.
Trong kỷ nguyên số, nếu không có nền tảng khoa học công nghệ tiên tiến thì không thể nói đến phát triển nhanh, bền vững, không thể xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Công nghệ không chỉ nâng cao năng suất mà còn quyết định khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên trong một nhà máy sản xuất ô tô ở Việt Nam (Ảnh: Vinfast).
Thực tế, trong 10 năm qua, TFP của Việt Nam đã tăng nhưng vẫn thấp hơn nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN. Việc xác định khoa học công nghệ là một trong các đột phá chiến lược mới là nhằm bắt kịp trình độ công nghệ khu vực, phát triển công nghiệp mũi nhọn, tiến tới tự chủ công nghệ cốt lõi trong các lĩnh vực như năng lượng, vật liệu mới, bán dẫn, công nghệ sinh học. Chính vì vậy, đột phá về khoa học công nghệ sẽ trở thành “đầu kéo” của nền kinh tế. Chính phủ cần tạo dựng cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu phát triển (R&D) và thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa ba nhà: Nhà nước – Viện nghiên cứu – Doanh nghiệp.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, khoa học công nghệ là “chìa khóa” của phát triển bền vững và thúc đẩy các xu hướng phát triển tất yếu như kinh tế xanh, ESG – bộ tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển bền vững của doanh nghiệp bao gồm ba yếu tố: môi trường, xã hội và quản trị. Tại Diễn đàn ESG Việt Nam 2025 do báo Dân trí tổ chức chiều 22/12, nhiều ý kiến còn nhấn mạnh rằng “ESG là giấy thông hành cho chuỗi giá trị toàn cầu”; tôi hoàn toàn đồng ý như vậy.
Linh hồn của mô hình tăng trưởng mới
Nếu khoa học công nghệ là “động cơ”, thì đổi mới sáng tạo chính là “linh hồn” của mô hình tăng trưởng mới – nơi giá trị được tạo ra không chỉ từ sản phẩm vật chất mà còn từ ý tưởng, giải pháp và mô hình kinh doanh mới.
Để thúc đẩy và thực hiện thành công đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần triển khai thực hiện đồng thời cả ba phương diện: đổi mới thể chế và quản trị, cải tiến phương thức điều hành, chính sách và quản lý công; đổi mới công nghệ, tạo ra sản phẩm, quy trình, dịch vụ mới; đổi mới xã hội và con người, khơi dậy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám khác biệt.
Hiện nay, kinh tế nước ta có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, khoảng 100 quỹ đầu tư mạo hiểm và hệ sinh thái đổi mới đang mở rộng mạnh mẽ. Tuy nhiên, đổi mới sáng tạo vẫn nặng theo phong trào, chưa gắn chặt với chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Xây dựng, nuôi dưỡng văn hóa đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy liên kết giữa hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, ngành, vùng gắn với các chuỗi giá trị, mạng lưới đổi mới sáng tạo khu vực và toàn cầu.” Đây chính là phương thức để Việt Nam chuyển từ ứng dụng sáng tạo sang “sáng tạo gốc”.
Hạ tầng nền của thời đại dữ liệu
Cùng với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia được xem là hạ tầng thế hệ mới của phát triển. Chuyển đổi số không chỉ là việc số hóa quy trình, mà còn là chuyển đổi phương thức tổ chức, quản trị, sản xuất trên nền tảng dữ liệu. Khi quản lý, sản xuất, tiêu dùng đều dựa trên dữ liệu sẽ hình thành nền kinh tế số – bước khởi đầu của kinh tế tri thức.
Đưa chuyển đổi số quốc gia vào nhóm đột phá chiến lược thể hiện tư duy thể chế hóa công nghệ, biến công nghệ thành công cụ điều hành, dữ liệu thành tài nguyên và công dân thành trung tâm của hệ thống số. Đây là hướng đi giúp hiện đại hóa Nhà nước, minh bạch hóa xã hội và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia.
Thực hiện chuyển đổi số sẽ biến dữ liệu thành nguồn tài nguyên mới và công nghệ thành đòn bẩy của phương thức sản xuất mới, thúc đẩy cải cách thể chế, đưa nền kinh tế bước vào giai đoạn chuyển hóa sâu sắc cả về cấu trúc lẫn động lực phát triển.
Niềm tin mới cho giai đoạn hiện đại hóa
Có thể nói, việc xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược mới sẽ tạo dựng nền tảng, niềm tin mới cho giai đoạn hiện đại hóa nền kinh tế, bởi đột phá này vận hành đồng thời cả ba yếu tố của sức mạnh phát triển: tri thức – công nghệ – con người sáng tạo.
Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, đây là con đường ngắn nhất để nâng cao năng suất, bứt phá năng lực cạnh tranh và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có những cơ chế mạnh mẽ hơn, đầu tư hiệu quả hơn, hành động quyết liệt hơn; Chính phủ cần ban hành các chương trình mục tiêu, cơ chế tài chính và chính sách đặc thù để tạo đột phá thực chất trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thiết nghĩ, chúng ta cần khẩn trương, tập trung thực hiện các nội dung sau:
– Hoàn thiện cơ chế, chính sách và khung pháp luật. Tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Pháp luật phải đi trước một bước để không kìm hãm những ý tưởng vượt trước thời đại;
– Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho nghiên cứu và hạ tầng số. Tăng đầu tư nhà nước cho các trung tâm R&D, phòng thí nghiệm trọng điểm, công nghệ lõi, phát triển hạ tầng số quốc gia. Đầu tư hôm nay vào hạ tầng tri thức sẽ quyết định vị thế quốc gia ngày mai;
– Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ cao; xây dựng chương trình nhân tài quốc gia về AI, bán dẫn, an ninh mạng…; khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo, nâng cấp kỹ năng số cho người lao động. Không có nhân lực tinh hoa thì không thể có nền kinh tế đổi mới;
– Thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ, khởi nghiệp công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm và các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng. Tăng cường kết nối cung – cầu công nghệ, đẩy mạnh thương mại hóa và ứng dụng kết quả nghiên cứu. Đổi mới sáng tạo chỉ thật sự sống khi đi cùng thị trường;
– Đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện. Triển khai đồng bộ chuyển đổi số trong khu vực Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội; phát triển dữ liệu mới, kinh tế số trong mọi ngành; nâng cao an toàn, an ninh mạng. Chuyển đổi số không chỉ là thay đổi công nghệ, mà còn là thay đổi cách vận hành toàn nền kinh tế;
– Tăng cường liên kết Viện – Trường – Doanh nghiệp – Nhà nước. Xây dựng chuỗi giá trị tri thức từ nghiên cứu, đào tạo đến sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy mô hình Nhà nước đặt hàng, doanh nghiệp đồng hành. Liên kết mạnh thì tri thức mới chuyển hóa thành năng suất.
Đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ nhằm giúp chúng ta đuổi kịp thế giới, mà còn để tự định hình con đường phát triển của Việt Nam trong thời đại trí tuệ nhân tạo và kinh tế xanh. Đây là đột phá của tầm nhìn, của khát vọng và của bản lĩnh kiến tạo tương lai.
Tác giả: TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Hiện tại, ông thường xuyên có những ý kiến đóng góp cho công tác điều hành trên góc độ một chuyên gia về lĩnh vực thống kê.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!
Nguồn: https://dantri.com.vn/tam-diem/kien-tao-dot-pha-phat-trien-moi-20251223082030926.htm

