Sau MV Thị Mầu, ca sĩ Hòa Minzy đã quay trở lại đường đua âm nhạc với MV Bắc Bling vào ngày 1/3. MV Bắc Bling ra mắt không chỉ là cú hit trong sự nghiệp của Hòa Minzy khi theo đuổi màu sắc dân gian mà quả thực, những gì được gửi gắm trong MV này mới chạm đến tâm tưởng của biết bao khán giả yêu âm nhạc.
Trong MV Bắc Bling, Hòa Minzy không chỉ mang đến một bản hit đầy bắt tai mà còn khéo léo lồng ghép những “đặc sản văn hóa” vô giá của vùng đất Kinh Bắc. Từ hình ảnh áo tứ thân truyền thống của liền anh, liền chị, đến những nét văn hóa đậm chất dân gian như quả cau miếng trầu, hội đấu vật, đền Bà Chúa Kho, đua thuyền trên sông Như Nguyệt, hay không gian linh thiêng của Tam Phủ, tất cả đều được tái hiện một cách sống động và đầy tự hào.
Đặc biệt, hình ảnh bà cụ với nụ cười móm mém, nhai trầu cùng hàm răng đen đã chạm đến trái tim của hàng triệu khán giả. Điều đáng quý hơn nữa, tất cả những nhân vật trong phân cảnh này đều là các cụ trong làng của cô, mang đến sự chân thật và gần gũi khó tả.

Nguồn: Hòa Minzy
Chưa kể, để góp phần tạo nên sự xuất sắc của MV này còn có sự đóng góp không nhỏ của những người con xứ Kinh Bắc mà mọi người đều biết đến, “bảo chứng” cho MV ca nhạc này như nghệ sĩ Xuân Hinh, Masew, Tuấn Cry,…
Trên trang cá nhân của mình, Hòa Minzy cũng chia sẻ rằng: “Nếu có người nói đoạn đầu rap melody quá ấn tượng khiến đoạn này bị mờ thì có lẽ phải là người Bắc Ninh, là những người con xứ Kinh Bắc được thấm nhuần và yêu quê hương của mình, khi nhìn thấy những địa danh, di tích hay nét cổ truyền của quê hương được đưa lên màn ảnh nó mới tự hào và xúc động thế nào”.
Còn với những ai chưa hiểu về văn hóa Bắc Ninh, chưa biết vì sao người dân nơi đây lại gắn bó với những hình ảnh ấy, thì Bắc Bling chính là câu trả lời. Hòa Minzy đã dùng âm nhạc để kể câu chuyện về một vùng đất giàu truyền thống, để từ đó, mọi người thêm yêu và trân trọng những giá trị văn hóa đặc sắc của Bắc Ninh.
“Cây cô đơn” trên đê làng Hữu Chấp
Mặc dù giới trẻ thường tìm đến “cây cô đơn” trên đê làng Hữu Chấp để check-in tuy nhiên đây không phải lý do địa điểm này xuất hiện trong MV. Có lẽ, sự mộc mạc và chân phương đến thân thuộc của làng quê đã mở đầu MV, nếu ai đã từng ở làng đều sẽ nhận thấy.
Trong các ngôi làng cổ vùng đồng bằng Bắc Bộ, ta thường gặp một mô típ quen thuộc: Cây đa – giếng nước – sân đình. Bao thế hệ sinh ra và lớn lên, bao thăng trầm biến động của thời gian, cây đa – giếng nước – sân đình còn đó đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người. Và mô típ cây đa – giếng nước – sân đình được coi là biểu tượng của làng quê Việt Nam, là nơi diễn ra những sinh hoạt cộng đồng, nơi hẹn hò gặp gỡ xe duyên cho bao đôi lứa, đồng thời cũng là nhân chứng của lịch sử và ẩn chứa những nhân sinh suốt dòng thời gian. Mặc dù nhiều người trẻ gọi đây là “cây cô đơn” – một chốn check-in ghi lại những bức ảnh đẹp, thế nhưng, đối với những người con lớn lên từ làng, và cả những người con xa xứ, nhìn thấy cây lớn, dù cây đa, hay cây gạo – thì nơi ấy cũng là “ngọn hải đăng” chỉ đường để người ta tìm về quê hương.

Bởi vậy, ngay mở đầu MV, hình ảnh đoàn người đi trên đê làng, bóng cây cổ thụ sừng sững như “người gác làng” dẫn người ta trở về với nơi sinh thành. Như người xưa vẫn nói, khi những người con thành đạt “vinh quy bái tổ”, là trở về với cội nguồn, với nơi dung dưỡng ta có được cuộc sống tươi đẹp như hiện tại. Vì thế, hình ảnh cây cổ thụ sừng sững trên con đường đê như người dẫn lối, đưa đoàn người trẩy hội bước vào không gian văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc càng thân thuộc, gần gũi hơn.
Đền Bà Chúa Kho
Đền Bà Chúa Kho được mệnh danh là nơi thờ phụng vị “Thần Tài” vay vốn nổi tiếng linh thiêng miền Bắc. Là một trong những phúc thần của tín ngưỡng dân gian, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân châu thổ Bắc Bộ. Bà Chúa Kho được thờ cúng ở nhiều nơi, dưới hình mẫu vị thần “thủ kho”.
Tại Bắc Ninh, có các nơi thờ Bà Chúa Kho, đó là làng Cổ Mễ (phường Vũ Ninh), làng Quả Cảm (xã Hòa Long), làng Thượng Đồng (phường Vạn An), làng Hạ Đồng (huyện Tiên Du). Ngoài ra, ở gần đó cũng có đền Bà Chúa Kho ở làng Trung Đồng, huyện Việt Yên, Bắc Giang.
Từ truyền thuyết ở các làng, Bà Chúa Kho có nguồn gốc từ Bà Chúa Quả Cảm (Bà Chúa Lẫm), Hoàng phi đệ tam cung của vua Trần Anh Tông. Lễ hội chính của các làng tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng và 15 tháng 8 Âm lịch. Riêng đền Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ có giỗ chính vào 12 tháng Giêng.

Đền Bà Chúa Kho nổi tiếng trong tâm thức cầu tài của người Việt. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn gọi là Diên Ứng, Pháp Vân hay Cổ Châu, tọa lạc tại Thuận Thành, Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ nhất Việt Nam, được coi là ngôi chùa có lịch sử hình thành sớm nhất dù đã trải qua nhiều lần trùng tu. Chùa Dâu không chỉ là danh lam bậc nhất xứ Kinh Bắc mà còn là di tích quốc gia đặc biệt, được xếp hạng đợt 4.
Nằm trong vùng Dâu, xưa gọi là Luy Lâu, chùa Dâu là một trong năm ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp: Pháp Vân (mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (sấm), Pháp Điện (chớp) và chùa Tổ thờ Man Nương, mẹ của Tứ Pháp. Sau khi chùa Đậu bị phá hủy, tượng Bà Đậu được thờ chung tại chùa Dâu. Hàng năm, lễ hội Dâu diễn ra vào ngày 8/4 Âm lịch, là dịp tôn vinh những nét văn hóa truyền thống độc đáo.
Trải qua nhiều lần đại tu, chùa Dâu hiện nay gồm các hạng mục như Tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, nhà Tả vu – Hữu vu, Tam Bảo, Hậu đường và các công trình phụ trợ, tiếp tục là điểm đến tâm linh và văn hóa quan trọng của vùng đất Bắc Ninh.

Cảnh quay đầy chất nghệ thuật tại chùa Dâu có sự xuất hiện của nghệ sĩ Xuân Hinh. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Đền Đô
Đền Đô, còn gọi là Đền Lý Bát Đế hay Cổ Pháp Điện, tọa lạc tại phường Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, là một di tích lịch sử văn hóa đặc biệt. Được xây dựng từ thế kỷ XI trên nền đất nơi vua Lý Công Uẩn đăng quang và sau này trở thành nơi thờ tự 8 vị vua nhà Lý. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đền vẫn giữ nguyên kiến trúc độc đáo, kết hợp hài hòa giữa phong cách cung đình và dân gian, với những nét chạm khắc tinh xảo.

Trong MV Bắc Bling cũng xuất hiện hình ảnh về hội đấu vật tại đền Đô. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Khuôn viên rộng hơn 31.000 m² của đền là nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử quan trọng, như bức cuốn thư “Chiếu dời đô” và bài thơ “Nam quốc sơn hà” – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Đền Đô không chỉ là nơi linh thiêng, hội tụ linh khí đất trời mà còn là điểm đến để nhân dân cầu phúc, ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc. Năm 1991, đền được công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa, và đến năm 2014, cùng với các khu lăng mộ nhà Lý, được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.
Đến Đền Đô, du khách như được sống lại những ngày đầu dựng nước, cảm nhận sâu sắc giá trị văn hóa và lịch sử của một thời kỳ vàng son.

Một cảnh quay trước “Chiếu dời đô” được làm bằng gốm Bát Tràng tại đền Đô. Bức cuốn thư “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải là bài thơ hào hùng nổi tiếng – như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…” của Lý Thường Kiệt. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Ngoài ra, tuy không xuất hiện hình ảnh trong MV nhưng qua câu hát “Tam Phủ chốn bồng lai linh thiêng/Nương nhờ cửa thánh con xin cúi đầu”, một địa điểm khác tại Bắc Ninh cũng thể hiện về vùng đất địa linh nhân kiệt này.
Đền Tam Phủ, còn gọi là đền Ba Vua, tọa lạc tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, là nơi thờ phụng ba vị chí tôn: Thiên Phủ, Địa Phủ và Thuỷ Phủ – những vị vua cai quản ba cõi Trời – Đất – Nước, đấng tạo hóa sinh thành vạn vật. Theo tư liệu địa phương, đền được xây dựng từ lâu đời trên gò đất cao giữa bãi Nguyệt Bàn, một bãi bồi rộng lớn bao quanh bởi sông nước mênh mông. Nơi đây gắn liền với sự kiện lịch sử trọng đại khi các vua quan nhà Trần tổ chức Hội nghị Bình Than năm 1282, bàn kế đánh giặc Nguyên – Mông. Trước trận chiến, họ đã đến đền làm lễ tế trời đất, cầu mong chiến thắng và bảo vệ bờ cõi. Đền cũng thờ đức Thánh Trần (Trần Quốc Tuấn), vị anh hùng có công đánh đuổi quân Nguyên Mông, được nhân dân tôn kính và các triều đại ban sắc phong.

(Nguồn: MV Bắc Bling)
Kiến trúc đền mang phong cách cổ kính với ba gian hai chái, mái đao cong, nơi đặt ban thờ Ngũ vị tiên ông, Đức ông và Bà chúa Lục Đầu Giang. Trên khám thờ treo bức hoành phi cổ “Tam phủ linh từ” cùng câu đối: “Vạn cổ nguy nga Tam Phủ điện/Thiên thu đột ngột Lục đầu giang”, thể hiện sự linh thiêng và uy nghi của di tích. Năm 2007, Đền Tam Phủ và Bãi Nguyệt Bàn được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hóa, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử của nơi này.
Làng gốm Phù Lãng
Làng gốm Phù Lãng, thuộc xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nằm bên bờ sông Cầu, cách Hà Nội khoảng 60 km. Nơi đây nổi tiếng với nghề gốm truyền thống có từ cuối thời Trần, đầu thời Lê. Theo sử sách, ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú, người đã học nghề gốm ở Trung Quốc vào cuối thời Lý và truyền lại cho dân làng. Nghề gốm phát triển mạnh vào thế kỷ XIV, với các sản phẩm gốm men nâu độc đáo như men da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu. Hiện nay, nhiều sản phẩm gốm Phù Lãng từ thế kỷ 17-19 vẫn được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và các bộ sưu tập tư nhân.
Cận cảnh những thước phim đậm chất điện ảnh được quay tại làng gốm Phù Lãng. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Tranh Đông Hồ – Tố nữ đồ
Xuất hiện trong MV Bắc Bling cũng có những hình tranh Đông Hồ như Vinh quy bái tổ, Đám cưới chuột, Chăn trâu,… Nhưng nổi bật nhất phải kể đến bức Tố nữ đồ.

(Nguồn: MV Bắc Bling)
Và trong Bắc Bling, Hòa Minzy đã xuất sắc hóa thân thành 4 cô gái trong Tố nữ đồ. Tố nữ đồ là bộ tranh Tứ Bình gồm bốn bức, khắc họa hình ảnh bốn thiếu nữ Việt Nam thời xưa với trang phục áo ngũ thân thời Nguyễn, tóc vấn đuôi gà, mỗi người một dáng vẻ: Cô thổi sáo, cô cầm sênh tiền, cô cầm quạt và cô gảy đàn nguyệt. Mỗi bức tranh đi kèm một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, thể hiện vẻ đẹp và tâm hồn thiếu nữ Việt Nam truyền thống.
Bộ tranh có nhiều dị bản, trong đó một phiên bản khác miêu tả bốn cô gái với trang phục áo tứ thân, đội khăn mỏ quạ, thực hiện các động tác: Gảy đàn, cầm quạt, mang nón quai thao và bưng cơi trầu. Một dị bản khác được cho là thuộc dòng tranh Đông Hồ, với các nhân vật thổi sáo, kéo nhị, gảy đàn tỳ bà và đàn nguyệt.

Hòa Minzy hóa thân thành Tố nữ đồ trong Bắc Bling. (Nguồn: MV Bắc Bling)
Hội Lim
Kinh Bắc xưa nổi tiếng là vùng đất của những câu chuyện cổ và lễ hội dân gian, trong đó Hội Lim tại thị trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh là nổi bật nhất. Hội Lim, bắt nguồn từ thế kỷ 18, là một sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật đặc sắc, nơi dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hóa của dân tộc Việt, tiêu biểu cho dân ca trữ tình Bắc Bộ.
(Nguồn: MV Bắc Bling)
Hội Lim gắn liền với lễ rước, tế lễ và các trò chơi dân gian như đấu vật, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm. Đặc biệt, phần hát hội là linh hồn của lễ hội, với các làn điệu Quan họ mời trầu, gọi đò, con sáo sang sông… diễn ra trên thuyền rồng sơn son thiếp vàng, tạo nên không gian âm nhạc và thơ ca đầy xao xuyến.
Lễ hội diễn ra từ ngày 11 đến 14 tháng Giêng, với trung tâm là núi Hồng Vân, nơi tế lễ uy nghiêm và các trò vui hấp dẫn như đánh cờ người, tổ tôm điếm, thi làm cỗ… Hội Lim không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn là cách chơi độc đáo, mang đậm sắc thái văn hóa cao của người dân vùng Lim.
Một chi tiết rất thú vị xuất hiện trong MV đó là cảnh nghệ sĩ Xuân Hinh “lướt trên sóng” trước Nhà hát Dân ca quan họ Bắc Ninh. Nhà hát Dân ca quan họ Bắc Ninh được xây dựng trên khu đất rộng hơn 19.000m2 tại thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, tổng mức đầu tư hơn 240 tỷ đồng. Công trình khởi công tháng 9/2016, hoàn thành năm 2020.

(Nguồn: MV Bắc Bling)
Một điều xuyên suốt có thể thấy trong MV Bắc Bling chính là trang phục của các liền anh, liền chị. Quan họ Bắc Ninh nổi bật bởi sự kết hợp tinh tế giữa giai điệu du dương và lời ca ý nghĩa, cùng trang phục truyền thống mang đậm nét văn hóa ứng xử của các liền anh, liền chị. Trang phục quan họ không chỉ là nghệ thuật thẩm mỹ mà còn ẩn chứa chiều sâu văn hóa. Liền anh thường mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, điểm xuyết họa tiết lá sen, viền tà rộng, đầu đội khăn xếp hoặc nhiễu quấn. Liền chị diện “áo mớ ba mớ bảy” với nhiều lớp áo dài lồng nhau, kết hợp váy đen dài, khăn mỏ quạ và nón quai thao, tạo nên vẻ duyên dáng, rực rỡ.

(Nguồn: MV Bắc Bling)
Những làn điệu quan họ mượt mà, sâu lắng đã trở thành hình ảnh quen thuộc, gợi nhớ khung cảnh làng quê Bắc Bộ yên bình, nơi những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba mớ bảy, đội nón quai thao, cùng các liền anh áo the khăn xếp đối đáp giao duyên. Năm 2009, UNESCO đã vinh danh dân ca quan họ Bắc Ninh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, ghi nhận những giá trị văn hóa, nghệ thuật, tập quán xã hội, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử, và trang phục độc đáo của loại hình nghệ thuật này.
Nguồn: https://afamily.vn/loat-dac-san-van-hoa-bac-ninh-trong-mv-cua-hoa-minzy-hoi-tho-truyen-thong-day-tu-hao-trong-nhung-thuoc-phim-tuyet-doi-dien-anh-20250303162948726.chn