Thứ hai, Tháng mười hai 22, 2025
HomeThời SựMõ gỗ sến đỏ 146 năm tuổi - báu vật của làng

Mõ gỗ sến đỏ 146 năm tuổi – báu vật của làng

Quảng NgãiMõ gỗ quý dài 1,4 m, được làng Trung Lương giữ qua ba thế kỷ, đánh dấu cột mốc người Kinh lập nghiệp ở cao nguyên.

Sau 146 năm, chiếc mõ gỗ cà chít (sến đỏ) đường kính 30 cm trong đình làng Trung Lương, phường Kon Tum (trung tâm tỉnh Kon Tum cũ) vẫn còn nguyên vẹn. Mõ được đặt tại gian giữa, nơi thờ các bậc tiền hiền, trên thân khắc bốn chữ Hán – Kỷ Mão Niên Chế 1879, ghi dấu năm chế tác.

Gõ thanh gỗ vào chiếc mõ, ông Quách Vĩnh Kinh, 97 tuổi, người trông coi đình làng suốt hơn 70 năm, cho biết tiếng mõ nay không còn vang như xưa vì chiếc dùi bằng gỗ sến đỏ đã thất lạc. Dù vậy, chiếc mõ vẫn là biểu tượng gắn kết cộng đồng làng từ thuở ban đầu.

Ông Quách Vĩnh Kinh gõ vào chiếc mõ gỗ sến đỏ trong đình làng Trung Lương. Ảnh: Thảo Vy

Ông Quách Vĩnh Kinh gõ vào chiếc mõ gỗ sến đỏ trong đình làng Trung Lương. Ảnh: Thảo Vy

Theo tư liệu còn lưu giữ, cuối thế kỷ 19, một bộ phận người Kinh từ đồng bằng di cư lên vùng Kon Tum cũ (nay thuộc Quảng Ngãi) lập nghiệp. Khi ấy, khu vực ven sông Đăk Bla còn hoang vu, người đến sớm vừa khai khẩn đất đai, vừa thiết lập quan hệ trao đổi hàng hóa với cư dân bản địa.

Khác với cộng đồng giáo dân đã có mặt trước đó, làng Trung Lương duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Thành hoàng làng, Thánh Mẫu và cô hồn. Khoảng năm Kỷ Mão 1879, dân làng dựng một am nhỏ bằng tre nứa để thờ tự, cầu mong mưa thuận gió hòa. Cùng thời điểm này, họ chế tác hai giá trống và một chiếc mõ từ gỗ cà chít. Trống dùng trong các nghi lễ tế thần, thường kết hợp với chiêng; mõ dùng để triệu tập dân làng khi có việc chung.

Năm 1885, triều đình Huế thành lập đạo Kon Tum (đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh ngày nay), chủ trương đưa người Kinh từ Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi lên sinh sống. Dân cư Trung Lương theo chính sách mộ dân ngày càng đông, nhu cầu sinh hoạt tâm linh tăng cao. Người làng góp công chặt cây, xẻ gỗ, mở rộng am thờ thành đình làng khang trang, đồng thời bầu các chức sắc để điều hành tế lễ hằng năm.

Bốn chữ Hán Kỷ Mão Niên Chế được dịch sang tiếng Việt, đánh dấu năm chiếc mõ được chế tác. Ảnh: Thảo Vy

Bốn chữ Hán “Kỷ Mão Niên Chế” được dịch sang tiếng Việt, đánh dấu năm chiếc mõ được chế tác. Ảnh: Thảo Vy

Từ đó, làng Trung Lương với mái đình làm trung tâm sinh hoạt chung, có các gian thờ tiền hiền, Thành hoàng, Thánh Mẫu, nhà thờ cô hồn cùng trống và mõ, mang dáng dấp một làng Việt ở đồng bằng giữa vùng cao nguyên. Các sinh hoạt cộng đồng như họp làng, lễ tế Xuân – Thu được tổ chức nền nếp. Mỗi khi làng có việc cần bàn hay giải quyết tranh chấp, chức sắc gõ mõ ba hồi, chín tiếng để gọi dân. Ai không đến sẽ bị phạt lao động công ích bảy ngày.

Khi ông Kinh chào đời, đình làng đã gần 50 năm tuổi. Mỗi dịp lễ Tế Xuân, Tế Thu; giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch); lễ “Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cư” (10/8 âm lịch), sân đình lại đông đủ người lớn trẻ nhỏ. Chỉ cần nghe tiếng mõ, tiếng trống, cậu bé Quách Vĩnh Kinh ngày ấy theo cha đến đình, chờ chức sắc hành lễ rồi dâng hương, bái vọng. Với ông và nhiều người, đình làng là điểm tựa tinh thần của cả cộng đồng.

Năm 1917, đình Trung Lương được tu sửa theo kiến trúc mới. Nơi đây từng lưu giữ sắc phong của triều Nguyễn công nhận Thành hoàng làng, song về sau các sắc này bị thất lạc. Lo ngại chiếc mõ gỗ quý cũng gặp chung số phận trong những giai đoạn biến động, ông Kinh từng lén đưa mõ về nhà riêng cất giữ, dù lệ làng không cho phép. Khi thời cuộc ổn định, ông chủ động đưa bảo vật trở lại đình.

Khuôn viên đình Trung Lương, phường Kon Tum, nơi được công nhận là di tích cấp tỉnh từ năm 2007. Ảnh: Thảo Vy

Khuôn viên đình Trung Lương, phường Kon Tum, nơi được công nhận là di tích cấp tỉnh từ năm 2007. Ảnh: Thảo Vy

Chiếc mõ gỗ cà chít cùng hai giá trống được xem là báu vật của làng, không chỉ vì giá trị vật chất mà bởi dòng chữ khắc năm chế tác – một “bằng chứng lịch sử” đánh dấu thời điểm hình thành của một trong những ngôi làng người Kinh sớm nhất trên vùng đất này.

Năm 2007, đình làng Trung Lương được tỉnh Kon Tum xếp hạng di tích lịch sử. Đến nay, các lễ tế truyền thống vẫn được duy trì. Ông Kinh là người chủ trì, bởi những quản sự trước đây đã lần lượt qua đời. “Bây giờ con cháu dùng điện thoại, mạng xã hội, chiếc mõ không còn để truyền tin. Nhưng phải giữ gìn để không quên nguồn cội”, ông nói.

Ông Cao Chư, nguyên phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi, cho biết mõ là vật dụng quen thuộc trong đời sống và tín ngưỡng người Việt, thường làm bằng tre hoặc gỗ. Tuy nhiên, chiếc mõ gỗ cà chít ở làng Trung Lương có kích thước lớn hiếm thấy. “Đây có lẽ là chiếc mõ độc nhất vô nhị”, ông nhận định.

Thảo Vy

Nguồn: https://vnexpress.net/mo-go-sen-do-146-nam-tuoi-bau-vat-cua-lang-4994138.html

VnExpress Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay