Canh gác Cô Lin, Len Đao
Tháng 6.1974, chàng trai 18 tuổi Nguyễn Ngọc Thành (hiện sống ở TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) tình nguyện nhập ngũ vào Đại đội 12, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 (Quân khu 4). Tháng 4.1976, sau gần 1 năm tham gia xây dựng tuyến đường sắt Thống Nhất, ông nằm trong số 46 chiến sĩ đã học xong lớp 10/10 của toàn sư đoàn, được chuyển sang bộ đội hải quân và vào học chuyên ngành sĩ quan chỉ huy tàu mặt nước, Trường Sĩ quan Hải quân (nay là Học viện Hải quân).

Tàu HQ-614 rời quân cảng Cam Ranh, ra Trường Sa làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền năm 1988
Tháng 12.1979, ông Thành tốt nghiệp, nhận quân hàm thiếu úy và về làm phó thuyền trưởng các tàu HQ-931, HQ-671 thuộc Lữ đoàn 125. Từ tháng 9.1981, ông là thuyền trưởng tàu HQ-671 rồi đến tháng 6.1986 giữ vị trí thuyền trưởng tàu HQ-614 (Hải đội 413, Vùng 4 Hải quân).
Trong chiến dịch bảo vệ chủ quyền năm 1988 tại quần đảo Trường Sa, tàu HQ-614 sau khi cùng tàu HQ-951 giành giữ Châu Viên, đã nhận lệnh về đóng giữ Đá Đông và trực tiếp thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Thành chỉ huy lực lượng đổ bộ lên Đá Đông, vận chuyển thiết bị lên làm nhà và tàu HQ-614 trực bảo vệ bộ đội trên Đá Đông.
Trưa 14.3.1988, sau khi tiếng súng vang lên trên vùng biển đảo Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao, tàu HQ-614 nhận lệnh cơ động lên tăng cường bảo vệ đảo Cô Lin. “Quãng đường hơn 120 hải lý, tàu chạy hết tốc lực, xác định đến nơi sẽ tham gia chiến đấu bảo vệ Cô Lin”, thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Thành nhớ lại.

Bộ đội công binh hải quân tôn tạo, củng cố các đảo đóng giữ, năm 1988
Ảnh: Nguyễn Viết Thái
Ông Thành kể: “Chiều 15.3 đến Cô Lin, phải lách qua 2 tàu Trung Quốc để cặp mạn tàu HQ-505 nằm lửng lơ trên mép xanh, khói vẫn bốc lên nghi ngút. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ từ HQ-505 sang báo là HQ-931 đã đưa thương binh và anh em trôi dạt về đảo Sinh Tồn, HQ-641 ở lại trực”…
Thượng tá Phạm Văn Hưng (nguyên Phó phòng Hành chính – Hậu cần, Bộ Tư lệnh Hải quân phía nam) nhớ lại thời điểm từ tháng 4 – 7.1988, khi ông là trung úy – trưởng ngành hỏa lực của tàu HQ-505: “Tàu HQ-614 trực phía ngoài bảo vệ, liên tục phải đối phó với các hành động của tàu Trung Quốc. Nhiều lúc họ ép sát tàu trực, chĩa nòng pháo vào đài lái, rất căng thẳng”.
Sau 4 tháng trực bảo vệ Cô Lin, Len Đao, tháng 7.1988 tàu HQ-614 mới về bờ và được thưởng… 1 chậu thuốc bổ đầy ắp. Cuối tháng 8.1988, tàu vừa đi biển về thì lại nhận lệnh: “Chở lực lượng công binh 131 ra xây dựng đảo Thuyền Chài, kết hợp đưa bộ phận quân khí của Lữ đoàn 146 vận chuyển pháo ra đảo Trường Sa, An Bang”… Không ai ngờ đây là chuyến đi biển cuối cùng của tàu vận tải quân sự HQ-614.
Trong chiến dịch bảo vệ chủ quyền năm 1988, ta đã huy động 82 tàu các loại, hoạt động 157 lần chuyến. Trong đó, Quân chủng Hải quân có 56 tàu, hoạt động 101 lần chuyến. Một số tàu (HQ-652, HQ-653, tàu cá 400 CV, các tàu trục vớt) bị hư hỏng nặng, đã nằm trong diện thanh lý… nhưng do yêu cầu nhiệm vụ, ngành kỹ thuật đã tập trung sửa chữa, bảo đảm cho tàu tiếp tục hoạt động biển xa.
(Nguồn: Cục Kỹ thuật Hải quân)
Thuyền Chài – vượt qua sinh tử
Đại tá Nguyễn Kiều Kinh (nguyên Trưởng phòng Chính sách, Quân chủng Hải quân) nhớ lại thời điểm giữa tháng 8.1988, ông là thượng úy chỉ huy khung công binh của Trung đoàn 131, chuyển vật liệu xuống tàu HQ-614 ra xây dựng đảo Thuyền Chài. Sau cả tuần ghé qua một số đảo để cấp hàng, thay quân và đưa pháo lên tăng cường hỏa lực chiến đấu, tàu HQ-614 mới đến được Thuyền Chài. Sau 1 ngày bốc được nửa số vật liệu lên đảo, đêm ấy giông lốc bất ngờ nổi lên, xô tàu dạt lên đảo.

Tàu HQ-614 bị lật úp, chìm dần và bộ đội trên tàu bơi sang tàu cứu hộ
“Đã thả neo dài hết cỡ, đến 180 m, nhưng sóng to gió lớn đẩy tàu lên hẳn rạn san hô rìa đảo, mắc cạn. Gần 3 tháng trời, chúng tôi tìm mọi cách đưa tàu ra nhưng không được. Nước ngọt dần hết, lương thực cạn dần, bộ đội mỏi mệt, mất sức, cấp trên phải đề nghị Hải quân Liên Xô đưa tàu ra giật khỏi rạn san hô, kéo về Cam Ranh”, ông Nguyễn Ngọc Thành kể. Giữa tháng 12.1988, tàu cứu hộ SB-28 của Liên Xô có mặt tại Thuyền Chài và mất gần 3 tuần tìm cách cứu HQ-614. Đêm ấy, thủy triều dâng cao, tàu SB-28 chớp thời cơ kéo HQ-614 ra khỏi bãi san hô.
Khi còn cách vịnh Cam Ranh khoảng 90 hải lý thì nước biển tràn qua thân tàu rách nát, khiến HQ-614 chìm dần. Dù tàu cứu hộ đã dùng mọi biện pháp ứng cứu, nhưng sáng 25.12.1988, tàu HQ-614 lật úp. Trước tình hình này, tàu Liên Xô ném áo phao, dây thừng để bộ đội từ tàu HQ-614 có điểm, vật đu bám, leo lên tàu cứu hộ.
“Khi tàu HQ-614 được kéo ra khỏi bãi san hô, lực lượng công binh xây dựng Phan Vinh cũng hoàn thành nhiệm vụ và lên tàu về cùng. Tổng quân số trên tàu lúc ấy là 66 người. Khi chúng tôi gửi điện về bờ thông báo tàu chìm, ai cũng nghĩ chúng tôi sẽ hy sinh trong điều kiện sóng to gió lớn. Thật kỳ diệu là tất cả đều lên được tàu Liên Xô, chỉ có vài người bị thương”, thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Thành nhớ lại.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Thành (trái) và trung tá Vũ Huy Lễ, năm 1995
Ông Thành trầm giọng: “Khi về đến bờ, đi qua hội trường Vùng 4, vẫn thấy 66 bộ quần áo, ba lô, mũ mãng ngành chính sách để sẵn, định làm lễ truy điệu anh em”.
Bây giờ, những cựu binh của tàu HQ-614 khi gặp nhau vẫn kể: “Thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Thành là người cuối cùng rời tàu, sau khi đã hạ lá cờ trên đài lái và cuộn cất trong ngực, cùng khẩu súng ngắn”. Khi chúng tôi hỏi về chi tiết này, trung tá – thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Thành nghiêm trang nói: “Là sĩ quan chỉ huy mà khi nguy cấp lại bỏ lại lá cờ Tổ quốc, thì không đáng mặt làm chiến sĩ. Có chết, cũng phải giữ cờ”…
(còn tiếp)
Cứu được 66 người chìm tàu là một kỳ tích
“Tháng 12.1988, tàu SB-28 của chúng tôi thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn tàu HQ-614 tại đảo Thuyền Chài. Ra đến nơi, tôi thấy con tàu đậu trên bãi đá, với mạn trái rách bươm và mặt boong hỏng nặng…
Sau 3 tuần nỗ lực cứu hộ, chúng tôi đã mệt lử, dự trữ lương thực – nước ngọt đã cạn và ai cũng thấy công tác cứu hộ là khó thành công.
Có một buổi tối, đỉnh triều đã dâng cao, tàu bị nạn được kéo ra vùng nước sâu. Hàng chục phát pháo hiệu bay vút lên, tiếng súng bộ binh đồng loạt vang lên cùng tiếng hét “Ura”.
Buổi sáng hôm sau, chúng tôi hạ xuồng giải cứu 35 quân nhân Việt Nam bơi từ tàu HQ-614 sang. Có 1 người bị thương vào đầu, toàn đầu bị băng kín và anh ta bơi mù, chỉ được bảo hiểm bằng một sợi dây cáp.
Sáng ngày thứ ba, đài vô tuyến điện có tiếng rít và giọng tiếng Nga lơ lớ: “Đồng chí Kharikov! Tàu chúng tôi sắp chìm – hãy cứu giúp nhanh!”.
Bây giờ chỉ có thể cứu người. Con tàu lật nghiêng cắm mũi xuống nước. Vài nhóm người di chuyển thành công theo cáp kéo cứu hộ sang tàu chúng tôi. Tuy nhiên, có vài người trượt xuống nước và bị cuốn đi.
Con tàu bị lật úp. Người ta đã ném xuống thang dây, chăn và vải trải giường đã thắt nút. Tất cả những ai không phải trực gác đều nhào vào kéo người lên khỏi mặt nước. Thuyền trưởng, phiên dịch viên trong tay cầm túi cao su đựng tài liệu, trên đầu họ đội lá cờ Tổ quốc.
Chúng tôi ném phao cứu sinh, cứu được 66 người. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn ngạc nhiên là làm thế nào trong một tình hình hỗn độn như vậy, không có các công cụ hiện đại, mà vẫn cứu được đủ mọi người”.
(Trích hồi ký của đại tá Khorkov V.A – cựu Tham mưu trưởng Lữ đoàn tàu mặt nước 119, Hạm đội Thái Bình Dương, Hải quân Liên Xô, 1985 – 1989)
Nguồn: https://thanhnien.vn/nhung-con-tau-giu-dao-185250312200426832.htm