Lựa chọn Tây Nguyên thể hiện tầm nhìn chiến lược của quân ta
PV: Nhắc tới quyết định chọn Tây Nguyên là địa điểm mở màn cho cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng khẳng định: “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương”. Xin Tiến sĩ phân tích rõ hơn về vị trí chiến lược của Tây Nguyên vào giai đoạn này?
TS Phạm Minh Thế: Nếu như quan sát trên bản đồ, chúng ta thấy rằng trên các góc cạnh như địa quân sự, địa chính trị, địa kinh tế, và địa văn hóa, Tây Nguyên là vùng đất địa chiến lược hết sức quan trọng của đất nước ta ở mọi thời điểm, đặc biệt là về an ninh quốc phòng.
Tây Nguyên là địa bàn tiếp giáp biên giới với lãnh thổ của Lào và Campuchia, bao gồm cả khu vực ngã ba Đông Dương, với địa hình cao, hiểm trở và phức tạp. Ở phía bắc của Tây Nguyên là tỉnh Kon Tum thì có nhiều núi cao, rừng rộng. Phía nam địa hình lại tương đối bằng phẳng, các cái dãy núi thấp dần tới cao nguyên Lâm Viên và Lâm Đồng. Ở phía đông thì nối các cái tỉnh đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ; và phía tây thì tiếp giáp với Đông Bắc Campuchia, phía Tây Bắc thì tiếp giáp với vùng Hạ Lào.
Như thế, chiếm được Tây Nguyên thì sẽ khống chế được cả Đông Dương. Bởi vì từ đây, có thể đưa quân sang Lào, sang Campuchia, ra miền bắc Việt Nam rồi đổ xuống một dải duyên hải miền trung của Việt Nam, hay là tiến xuống vùng Nam Bộ. Do đó, “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương” là nhận định đúng đắn và sắc bén của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Mặt khác, thời điểm cuối năm 1974, đầu năm 1975, Tây Nguyên là địa bàn Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là nơi được coi là hậu phương của Quân khu 1 bao gồm Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngãi của miền nam.
Đây là địa bàn tiền phương tiếp giáp với miền bắc và được coi là lá chắn cho Quân khu 3 và 4 của Việt Nam Cộng hòa. Nó che chở trực tiếp cho trung tâm đầu não của địch ở Sài Gòn. Như thế, vị trí chiến lược của Tây Nguyên là vô cùng quan trọng và chiếm được địa bàn này thì sẽ làm rung chuyển cả miền nam như nhận định của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Sở chỉ huy mặt trận Tây Nguyên tháng 3/1975 (từ trái qua): Đồng chí Hoàng Dũng, Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Văn Tiến Dũng; đồng chí Bùi San, Khu ủy viên Khu V, đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (tức Chín Cần), Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. (Ảnh: TTXVN)
Sở chỉ huy mặt trận Tây Nguyên tháng 3/1975 (từ trái qua): Đồng chí Hoàng Dũng, Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Văn Tiến Dũng; đồng chí Bùi San, Khu ủy viên Khu V, đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (tức Chín Cần), Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. (Ảnh: TTXVN)
PV: Lựa chọn địa bàn Tây Nguyên làm bước mở màn đã là một bước đi sáng suốt, nhưng việc lập phương án tác chiến cho chiến dịch này cũng thể hiện sự kỳ công, thao lược không kém. Xin Tiến sĩ đánh giá về những nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự của chiến dịch mở màn này?
TS Phạm Minh Thế: Trong quá trình tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam và Đông Dương, người Pháp và người Mỹ đều nhận thức được vị trí “yết hầu” của khu vực Tây Nguyên. Họ xem Tây Nguyên là “nóc nhà của Đông Dương” nên đã bố trí một hệ thống các căn cứ, cứ điểm mạnh để nắm giữ được địa bàn chiến lược này.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức phòng ngự chiến lược ở Tây Nguyên nhằm án ngữ, ngăn chặn ta ở phía tây và tây bắc, làm lá chắn, bảo đảm an toàn cho các tỉnh miền trung và Đông Nam Bộ. Bởi nếu mất Tây Nguyên và toàn bộ Quân khu 2, thế chiến lược của địch sẽ bị chia cắt. Quân khu 1 bị cô lập và Quân khu 3 sẽ trực tiếp bị uy hiếp.
Vì thế, đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, lực lượng của địch đóng ở Tây Nguyên là tương đối đông. Bao gồm toàn bộ lực lượng của Sư đoàn bộ binh 23, 7 tiểu đoàn biệt động quân, 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn, 230 khẩu pháo, 150 máy bay thuộc Quân đoàn 2 Quân khu 2.
Tuy thế, cách bố trí lực lượng của địch là mạnh ở hai đầu, tức là mạnh ở khu vực phía bắc của Tây Nguyên nơi tiếp giáp với Quân khu 1 và khu vực tiếp giáp với Quân khu 3. Còn khu vực trung phần và phía nam Tây Nguyên được coi như hậu phương nên lực lượng mỏng hơn. Điều này đã tạo nên một “điểm yếu chí mạng” trong bố trí lực lượng của địch trên cả địa bàn Tây Nguyên.
Mặt khác, Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã tính toán rằng Quân Giải phóng sẽ tấn công vào bắc Tây Nguyên nên phần lớn lực lượng của Sư đoàn 23 và các Liên đoàn biệt động quân được bố trí tập trung ở vùng này để giữ lấy Pleiku và Kon Tum.
Đây chính là sơ hở lớn nhất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong bố trí lực lượng. Bởi Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống giao thông kém phát triển. Địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính như đường 14, đường 19, đường 21 và đường 7. Khi các trục đường này bị chia cắt và khóa chặt thì Tây Nguyên bị cô lập và tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền nam. Duy nhất chỉ còn lại cầu nối đường không để địch có thể chi viện, ứng cứu.
Cách bố trí lực lượng của địch là mạnh ở hai đầu, tức là mạnh ở khu vực phía bắc của Tây Nguyên nơi tiếp giáp với Quân khu 1 và khu vực tiếp giáp với Quân khu 3
TS Phạm Minh Thế
PV: Chúng ta đã tận dụng sơ hở này của địch như thế nào trong Chiến dịch Tây Nguyên, thưa Tiến sĩ?
TS Phạm Minh Thế: Ở chiều ngược lại, ta lại hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện phát huy được sở trường triển khai thế trận vận động tấn công, tiêu diệt từng bộ phận lực lượng của quân địch. Cách bố trí lực lượng mạnh hai đầu của địch đã tạo điều kiện cho Quân Giải phóng đánh đòn điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, mở mặt trận Tây Nguyên, bởi thành phố này nằm ở trung tâm của cao nguyên trung phần.
Ngoài ra, có thể thấy, lựa chọn hướng mở đầu tấn công vào Tây Nguyên rất thuận lợi cho ta để triển khai thế tiến công chiến lược. Để chọn Tây Nguyên, chúng ta cũng đã đưa ra rất nhiều hướng phân tích, luận giải. Hướng Nam Bộ (Quân khu 4) là “sân sau”, địch có nhiều cơ sở, tổ chức phòng ngự không vững chắc, thuận lợi cho ta phát triển chiến lược tiến công vào Sài Gòn, nhưng không thuận lợi để ta đưa binh khí kỹ thuật và lực lượng lớn vào tác chiến, khả năng chi viện khó khăn. Trên hướng Quân khu 1, địch tổ chức phòng ngự mạnh, hỏa lực không quân, pháo binh dày đặc và đường cơ động tốt. Khả năng ứng cứu và giải tỏa giữa các sư đoàn của Ngụy là rất dễ dàng. Đặc biệt là Quân khu 1 còn có một cảng biển để tàu chiến của địch có thể ứng cứu bất kỳ lúc nào.
Trong khi đó, hướng Tây Nguyên chủ yếu là rừng già, kín đáo, ta dễ triển khai binh khí kỹ thuật cho tác chiến hiệp đồng binh chủng hợp thành. Đây cũng là chiến trường chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong các lần đối đầu với địch ở cả cấp chiến dịch, chiến thuật và rất phù hợp với sở trường tác chiến của quân và dân ta. Hướng này, ta chuẩn bị lực lượng, thiết bị chiến trường khá chu đáo và vững chắc.
Tính tới đầu năm 1974, ở Tây Nguyên, khối chủ lực của ta chỉ có 2 sư đoàn bộ binh cùng một số đơn vị chiến đấu, bảo vệ chiến đấu. Nhưng tới giai đoạn cuối năm 1974, đầu năm 1975 đã tăng 5 sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn độc lập cùng các trung đoàn binh chủng chiến đấu, bảo đảm chiến đấu.
Từ phân tích thế bố trí lực lượng địch, địa hình và thế trận ta tạo lập cho thấy, Tây Nguyên là hướng có đủ điều kiện thuận lợi nhất để triển khai thế trận tiến công chiến lược. Thực tế chứng minh, khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn, ta đã tạo thế áp đảo ngay từ đầu, giáng cho địch đòn bất ngờ, choáng váng, tạo bàn đạp vững chắc cho các bước phát triển xuống các tỉnh duyên hải miền Trung, miền Đông và Nam Bộ, nhanh chóng phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch ở Vùng 2 chiến thuật, làm rung chuyển toàn bộ thế trận của địch trên toàn chiến trường, gây đột biến chiến tranh có lợi cho ta.
Và như thế, nghệ thuật chọn hướng mở đầu cho đòn tiến công chiến lược mùa xuân năm 1975 là nét nghệ thuật độc đáo, tài tình, đầy sáng tạo, là bước phát triển cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Nguồn: https://nhandan.vn/thang-loi-cua-chien-dich-tay-nguyen-da-thay-doi-cuc-dien-cua-chien-truong-post864612.html