Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và quân đồng minh vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền nam. Đồng thời, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền bắc.
Với sức mạnh kinh tế, quân sự của một quốc gia hùng mạnh, lúc cao nhất hơn 500.000 quân Mỹ, đồng minh và hơn một triệu quân Sài Gòn, đế quốc Mỹ muốn nhanh chóng đánh bại Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, giành lại thế chủ động trên chiến trường, hoàn thành chương trình bình định, kết thúc chiến tranh trong chiến thắng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ đêm 30 rạng ngày 31/1/1968 đến ngày 25/2/1968, trên toàn chiến trường miền nam, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy, đánh vào bốn thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của địch, bao gồm cả bốn bộ tư lệnh quân khu – quân đoàn, tám bộ tư lệnh sư đoàn, hai bộ tư lệnh biệt khu ngụy, hai bộ tư lệnh dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn,…
Tuy vậy, quân và dân Việt Nam đã không cho đế quốc Mỹ đạt mục tiêu giành thắng lợi trong việc tìm diệt Quân giải phóng và bình định toàn miền nam của hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967.
Hành động leo thang đánh phá miền bắc bằng không quân và hải quân của Mỹ cũng không ngăn được sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến miền nam mà ngược lại, hàng nghìn máy bay bị bắn rơi trên bầu trời miền bắc, hàng trăm phi công bị bắt,… càng làm cho nước Mỹ ngày càng sa lầy vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” về chiến lược. Vấn đề “chiến tranh Việt Nam” ngày càng chia rẽ sâu sắc đời sống chính trị của Hoa Kỳ; trong khi cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 1968 đang đến gần.
Nhận thấy tình hình bế tắc của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền nam – bắc, đưa cuộc chiến tranh phát triển lên bước cao nhất.
Tuy vậy, tương quan trên chiến trường vẫn nghiêng hẳn về phía địch, Mỹ ngụy có gần 1,2 triệu quân chủ lực, trong đó có sự hiện diện của 40% sư đoàn chiến đấu lục quân, 50% sư đoàn lính thủy đánh bộ, 50% số máy bay chiến đấu, 30% số tàu chiến của quân đội Mỹ. Trong khi quân số của ta chỉ có 270.000 bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Tuy nhiên, lực lượng cách mạng vượt trội hơn kẻ thù về ý chí, quyết tâm chiến đấu và thế trận chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở phân tích tình hình, Trung ương Đảng chỉ rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược”, cho “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”(1).
Trên cơ sở nắm chắc tình hình, so sánh tương quan lực lượng, tháng 10/1967, Bộ Chính trị đi đến quyết định: “Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền nam”(2), nhằm “Làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược”(3). Tháng 1/1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 14 (khóa 3) quyết định: “Tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định… đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền bắc… tiến tới thống nhất nước nhà”(4).
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ đêm 30 rạng ngày 31/1/1968 đến ngày 25/2/1968, trên toàn chiến trường miền nam, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy, đánh vào bốn thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của địch, bao gồm cả bốn bộ tư lệnh quân khu – quân đoàn, tám bộ tư lệnh sư đoàn, hai bộ tư lệnh biệt khu ngụy, hai bộ tư lệnh dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn,…
Có những trận gây tiếng vang mạnh mẽ, chấn động nước Mỹ và thế giới như: tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của ngụy quyền Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế… Phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với các cuộc tiến công vào đô thị, nhân dân miền nam nổi dậy, phá rã phần lớn bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền ở thôn, xã. Đòn tiến công đã làm tan rã 15 vạn tên địch, có bốn vạn quân Mỹ, phá hủy khoảng 1/3 vật tư chiến tranh của Mỹ ngụy, phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn một triệu dân(5).
Thời gian, quy mô, phương thức và mức độ quyết liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã gây bất ngờ lớn đối với đế quốc Mỹ; giáng đòn quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của những kẻ cầm đầu hiếu chiến, thổi bùng mạnh mẽ phong trào phản chiến ngay trong lòng nước Mỹ và nhiều nước trên thế giới, buộc Tổng thống Lyndon B Johnson phải tuyên bố không ra ứng cử cho nhiệm kỳ tiếp theo.
Có những trận gây tiếng vang mạnh mẽ, chấn động nước Mỹ và thế giới như: tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của ngụy quyền Sài Gòn và 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế… Phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với các cuộc tiến công vào đô thị, nhân dân miền nam nổi dậy, phá rã phần lớn bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền ở thôn, xã.
Đòn tiến công chiến lược của quân và dân ta cũng đã buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền bắc, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, để rồi bốn năm sau phải ký kết Hiệp định Paris rút quân Mỹ về nước.
Quân và dân ta đã thực hiện thành công chỉ đạo chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút” để tiến lên “Đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam bằng đòn Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Việc Đảng ta lựa chọn đồng loạt tiến công vào các đô thị đã “vượt ra ngoài dự lường và mọi sự tính toán trước đó của Nhà Trắng – Lầu Năm Góc và Bộ Tư lệnh MACV ở Sài Gòn”(6), đã giành được thắng lợi quan trọng, gây tiếng vang lớn tác động tới cục diện chiến tranh. Đây thật sự là chủ trương táo bạo, nhưng hết sức sáng tạo trong điều hành chiến tranh của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn chiến trường và vận dụng nét đặc sắc nghệ thuật quân sự “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, lấy trí tuệ và sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam để thắng giặc Mỹ xâm lược, tạo nên thắng lợi có tính chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thành công, để lại bài học to lớn cho công tác đánh giá, dự báo tình hình, đề ra chủ trương chiến lược để hoàn thành mục tiêu chiến lược cho cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
————————————-
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29.
(2) Bộ Quốc phòng – Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Nxb QĐND, Hà Nội, 2008, tr. 114.
(3) Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị (10/1967) bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu. Tổng công kích – tổng khởi nghĩa Đông – Xuân – Hè 1967 – 1968, (Nguồn Bộ Quốc phòng – Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Nxb QĐND, Hà Nội, 2008, tr. 121.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, 1968, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.51.
(5) Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội 2015, tr.81.
(6) Hoàng Dũng: “Tết Mậu Thân, bước ngoặt quyết định”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1/1998, tr.11.
Nguồn: https://nhandan.vn/tong-tien-cong-noi-day-xuan-mau-than-1968-sang-tao-trong-dieu-hanh-chien-tranh-cua-dang-post865087.html