Thứ tư, Tháng mười hai 10, 2025
HomeThời SựViệt Nam trước nỗi lo 'chưa giàu đã già'

Việt Nam trước nỗi lo ‘chưa giàu đã già’

Việt Nam trước nỗi lo chưa giàu đã già - Ảnh 1.

8 giờ tối, Hà Nội rét cắt da cắt thịt, ông Lê Chương Duy (67 tuổi) ngồi thu mình trong căn phòng bảo vệ chật hẹp của chung cư. Bữa cơm tối một mình chỉ vài miếng cháy tóp mỡ, lon ruốc và bát canh rau muống nấu vội. Ca trực của ông kéo dài 12 tiếng, gần như không có ngày nghỉ. “Chỉ mong trời thương đừng ốm, còn đi làm lo cho con út học đại học”, ông nói, hai bàn tay nứt nẻ xoa vào nhau tìm chút ấm.

Nhà ông Duy ở ngoại thành. Vợ ông ở quê làm nghề may, còn ông lên thành phố làm bảo vệ vì lưng đã đau, không thể cày ruộng “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” được nữa. Tiền kiếm được hai vợ chồng chia đôi, một nửa nộp học phí 40 triệu/năm, nửa kia đong gạo, đóng tiền điện nước. Ở cái tuổi mà nhiều người ở nhà bế cháu, ông Duy vẫn gồng mình qua những đêm dài lo toan cuộc sống.

Kém ông Duy 1 tuổi, PGS-TS Trần Văn Hải, nguyên Trưởng khoa Khoa học quản lý, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội), vẫn đi dạy mỗi ngày dù đã nghỉ hưu được 2 năm nay. Nhưng ông Hải không đi làm vì áp lực kinh tế mà sợ mình “già” quá sớm. “Nếu không đi làm, tôi sợ cơ thể mình yếu đi, trí lực cũng lụi dần. Nhìn không khí ở trường, tôi thấy mình trẻ ra”, ông cười.

Dù vì cơm áo, gạo tiền hay vì không muốn bị lãng quên, người cao tuổi Việt Nam ngày càng hiện diện nhiều hơn trong lực lượng lao động. Quan trọng hơn, sự hiện diện ấy báo hiệu một cơn bão lớn đang ập đến rất nhanh: dân số Việt Nam đang già đi với tốc độ mà nền kinh tế chưa kịp trở mình.

Tính đến 27.9.2025, Việt Nam đã có 16,5 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 16% dân số. Theo Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và dự báo sẽ trở thành “xã hội già” sau 11 năm nữa, vào năm 2036 khi tỷ lệ này chạm 20%.

Theo nhận định của UNFPA và Ngân hàng Thế giới, Việt Nam thuộc nhóm nước già hóa dân số với tốc độ thuộc hàng nhanh nhất toàn cầu. Nếu như Pháp mất tới 115 năm, Thụy Điển mất 85 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% thì Việt Nam chỉ mất khoảng 25 năm để hoàn tất quá trình chuyển đổi này – tương đương với tốc độ của Nhật Bản và Thái Lan.

Trong bối cảnh dân số đang già hóa nhanh, Việt Nam mới chỉ thoát khỏi nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Năm 2025, thu nhập bình quân đầu người mới chỉ đạt khoảng 4.900 USD – ở bước đầu của thu nhập trung bình cao và còn cách khá xa so với ngưỡng thu nhập cao (khoảng 13.845 USD/năm). Trong khi đó, Việt Nam đặt mục tiêu tới năm 2045, sau 20 năm nữa, sẽ trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Bài toán “già trước khi giàu” vì thế trở thành thách thức trung tâm đối với tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội trong những thập niên tới.

Theo các chuyên gia, nếu không sớm xây dựng những chính sách dài hạn và đủ mạnh, Việt Nam sẽ phải trả giá cho sự chậm trễ. Và những dấu hiệu cảnh báo đã hiện diện rất rõ.

Hiện gần 99% người cao tuổi sống dựa vào chăm sóc của gia đình, trong khi mô hình gia đình hạt nhân (2 thế hệ) ngày càng phổ biến. Con cái vừa đi làm, vừa chăm con nhỏ, lại gánh thêm trách nhiệm chăm cha mẹ già – một “gọng kìm” khiến cả gia đình dễ rơi vào kiệt quệ. Trong khi đó, hệ thống chăm sóc chuyên nghiệp cho người già hầu như chưa hình thành, từ dịch vụ bán trú, nội trú đến chăm sóc dài hạn.

Áp lực kinh tế cũng đang phơi lộ lỗ hổng lớn nhất của hệ thống an sinh. Chỉ khoảng 1/4 người cao tuổi tại Việt Nam có lương hưu hoặc trợ cấp, đồng nghĩa phần lớn 3/4 người cao tuổi còn lại trong xã hội buộc phải dựa vào tích lũy ít ỏi hoặc sự chu cấp của con cái. Những trường hợp như ông Duy kể trên không hề hiếm: tuổi già bệnh tật, không có lương hưu và đi làm vì mưu sinh giữa bối cảnh kinh tế khó khăn với chi phí sinh hoạt đắt đỏ, áp lực công việc và trách nhiệm chăm sóc mỗi ngày.

Thực tế, Việt Nam đang tiến rất nhanh đến ngưỡng “già trước khi giàu”. Dân số già hóa nhanh, nhưng hệ thống an sinh xã hội và nền kinh tế chưa kịp lớn mạnh để nâng đỡ người cao tuổi. Khi gánh nặng chăm sóc và tài chính dồn lên vai các gia đình trẻ, Việt Nam không chỉ đối mặt với bài toán an sinh mà còn phải đối diện nguy cơ mất đà phát triển trong tương lai.

Việt Nam trước nỗi lo chưa giàu đã già - Ảnh 2.

Già hóa dân số không chỉ là vấn đề của người già mà là vấn đề ở ngay những người trẻ.

Chị Hân (34 tuổi, Hà Nội), bác sĩ răng – hàm – mặt, đã có một con gái. Dù mong muốn gia đình đông đủ hơn, chị vẫn chưa nghĩ đến việc sinh bé thứ hai. Công việc yêu cầu liên tục cập nhật chuyên môn, trong khi nếu nếu mang thai, chị phải tạm dừng ít nhất 9 tháng. Cả hai bên nội ngoại đều làm ngành y, khó nhờ hỗ trợ chăm cháu. Thuê người giúp việc lại không dễ, vừa lo về an toàn, vừa lo không hợp cách nuôi dạy trẻ. Trẻ nhỏ thường xuyên ốm, mà việc nghỉ làm dài ngày là điều chị gần như không thể.

Ở một lát cắt khác của người trẻ thành thị, Mỹ Anh (29 tuổi) và người yêu đã bên nhau 6 năm nhưng chưa bao giờ tính đến chuyện kết hôn, sinh con. Không phải vì tài chính hay sức khỏe, mà bởi chị thấy hôn nhân không phải con đường “bắt buộc” cho hạnh phúc. Gia đình từng có đổ vỡ khiến chị tin rằng tình yêu có thể gắn bó bằng cam kết, không nhất thiết bằng một đám cưới.

Những người trẻ, nhất là ở khu vực đô thị, ngày càng kết hôn muộn, thậm chí không muốn kết hôn và ngại sinh con như Hân hay Mỹ Anh không phải hiếm. Đây là nguyên nhân chính khiến mức sinh của phụ nữ Việt Nam giảm nhanh kể từ 2023, trượt khỏi mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ). 

Năm 2023, mức sinh bình quân của Việt Nam là 1,96 con/phụ nữ và con số này giảm tiếp xuống còn 1,91 con/phụ nữ vào năm 2024, thấp hơn mức trung bình của các nước Đông Nam Á (2 con/phụ nữ) và chỉ cao hơn 4 nước trong khu vực là Brunei (1,8 con/phụ nữ), Malaysia (1,6 con), Thái Lan và Singapore (1 con/phụ nữ).

Khi mức sinh tiếp tục giảm, tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi sẽ giảm, tỷ trọng người già ngày càng tăng lên sẽ khiến cơ cấu dân số sẽ mất cân đối và giai đoạn dân số vàng sẽ dần khép lại nhanh hơn. Chưa kể, nếu không duy trì được mức sinh thay thế, dự báo tỷ lệ tăng dân số sẽ tiếp tục giảm và đạt trạng thái “dừng” vào giai đoạn 2064 – 2069.

Sau nhiều chục năm thực hiện chính sách giảm sinh với quy định “mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1 đến 2 con”, mãi tới vài năm trở lại đây, việc duy trì mức sinh thay thế mới được chú ý. Tại dự thảo luật Dân số đang được Quốc hội thảo luận, Bộ Y tế đề xuất nhiều chính sách nhằm duy trì mức sinh thay thế như chiến lược “chống” già hóa dân số. Phụ nữ sinh con thứ hai sẽ được tăng thời gian nghỉ thai sản thêm 1 tháng, còn nam giới được nghỉ thêm 5 ngày khi vợ sinh. 

Luật cũng đề xuất hỗ trợ tài chính khoảng 2 triệu đồng cho phụ nữ dân tộc ít người, phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi và các địa phương có mức sinh thấp. Ngoài ra, phụ nữ sinh đủ hai con hoặc nam giới nuôi hai con trong trường hợp vợ mất hoặc không có vợ sẽ được ưu tiên mua, thuê nhà ở xã hội theo quy định hiện hành.

Dù Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết đã cân nhắc nhiều mặt, nhất là nguồn lực, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, các chính sách được đề xuất chưa đủ mạnh và thiếu tính khả thi. GS Nguyễn Thiện Nhân (đại biểu Quốc hội TP.HCM) nói các giải pháp đề xuất trong dự thảo luật là không đủ để bảo đảm duy trì vững chắc mức sinh thay thế của Việt Nam.

Ông Nhân tính toán, theo đề xuất của Bộ Y tế, một phụ nữ sinh con được hỗ trợ 9 – 13 triệu/lần. Trong khi đó, để nuôi một người con từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành 18 tuổi, cần ít nhất 900 triệu đồng. Như thế, mức hỗ trợ tối đa cho phụ nữ sinh con mà dự thảo nêu ra chỉ bằng 1 – 1,5% chi phí nuôi một trẻ. 

“Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ 22% chi phí để nuôi một trẻ nhưng họ đã thất bại trong duy trì mức sinh thay thế. Nếu chúng ta hỗ trợ 1 – 1,5% mà nhận định là thành công, duy trì vững chắc mức sinh như thế, theo tôi là xa rời thực tế”, ông Nhân nói tại Quốc hội ngày 10.11 khi thảo luận về dự thảo luật Dân số.

Theo ông Nhân, một chân lý giản dị nhưng không được các chính phủ và công đoàn nói tới, là phải thay đổi chính sách tiền lương. Tiền lương tối thiểu phải đủ nuôi được người lao động và nuôi được một người con ăn học đàng hoàng tới 18 tuổi, như vậy mới có thể đủ điều kiện sinh một con, hay hai cha mẹ cùng làm mới nuôi được hai con. Nếu yêu cầu này không được đáp ứng, không bao giờ mức sinh của đất nước đạt và duy trì ổn định mức sinh thay thế.

Mức lương tối thiểu đủ sống và nuôi được 2 con như đề xuất của ông Nguyễn Thiện Nhân có thể là điều kiện cần, song chưa đủ, theo các chuyên gia.

TS Phạm Thị Lan (Trưởng phòng Phát triển Dân số, UNFPA), đánh giá, các chính sách tập trung vào hỗ trợ tài chính để khuyến khích sinh con sẽ không hiệu quả khi chưa chạm đúng gốc rễ để giải quyết một cách toàn diện vấn đề. Dù kinh tế là nguyên nhân chính, các quyết định sinh con còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác từ nỗi lo gián đoạn sự nghiệp, thiếu dịch vụ chăm sóc trẻ, điều kiện sống và cả sự thay đổi trong quan niệm hôn nhân – gia đình của thế hệ trẻ như trường hợp của Hân và Mỹ Anh kể trên.

Chưa kể, theo TS Phạm Thị Lan, việc hỗ trợ tài chính tại các khu vực có mức sinh thấp có thể làm gia tăng bất bình đẳng, bởi đây chủ yếu là những vùng kinh tế khá hơn. Trong khi đó, chính sách khuyến sinh với người dân tộc thiểu số trong khi mức sinh khu vực này đã rất cao, thậm chí gấp đôi mức sinh thay thế, sẽ làm gia tăng các vấn đề nghiêm trọng về y tế, xã hội như tỷ lệ sinh con tại nhà cao, hôn nhân cận huyết, tảo hôn hay tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao… 

Cạnh đó, việc tăng thời gian nghỉ thai sản với phụ nữ sinh con thứ 2 có nguy cơ tạo bất bình đẳng khi 60% phụ nữ đang làm việc trong lĩnh vực phi chính thức (làm những công việc không có lương, bảo hiểm, chế độ) sẽ không được hưởng lợi gì từ chính sách này…

Nhưng ngay cả khi vấn đề được tiếp cận toàn diện và đồng bộ hơn cũng không đảm bảo duy trì mức sinh thay thế. Thực tế, dù chi hàng tỉ USD cho các gói hỗ trợ tài chính khuyến sinh, đến nay chưa có quốc gia nào đưa mức sinh trở lại ngưỡng thay thế, theo các chuyên gia UNFPA.

Hàn Quốc là minh chứng rõ nhất cho giới hạn của chính sách khuyến sinh. Từ năm 2018 đến nay, quốc gia này có tỷ suất sinh xuống dưới 1 trong suốt 7 năm liên tiếp – mức thấp nhất thế giới. Dù chính phủ đã chi hàng chục tỉ USD cho các gói hỗ trợ sinh con, nhà ở, trợ cấp tài chính và phúc lợi gia đình, mức sinh vẫn không phục hồi. Theo GS Giang Thanh Long (Đại học Kinh tế quốc dân), hỗ trợ tài chính chỉ giải quyết được một phần cho khuyến sinh vì còn nhiều thách thức về việc làm, thu nhập ổn định cũng như gánh nặng vừa chăm con nhỏ, vừa chăm cha mẹ già, đặc biệt với phụ nữ.

Ngay cả khi các chính phủ nhận diện đúng các “nút thắt” và mở rộng nhiều chính sách với sự hỗ trợ tốt hơn thì các chính sách khuyến sinh cũng chỉ giúp làm chậm đà sụt giảm quá sâu chứ không thể khôi phục mức sinh như trước đây. Như Nhật Bản, theo GS Long, tuy chưa thể nâng mức sinh trở lại như trước, nhưng đã duy trì được tổng tỷ suất sinh (TFR) ổn định quanh mức 1,1 – 1,2 con/phụ nữ trong thập kỷ qua.

Việt Nam trước nỗi lo chưa giàu đã già - Ảnh 3.

Thay vì tập trung đưa mức sinh trở lại ngưỡng thay thế bằng chính sách khuyến sinh, nhiều chuyên gia cho rằng, cần sớm có chiến lược thích ứng chủ động để biến già hóa dân số thành cơ hội thay vì gánh nặng.

Dự thảo luật Dân số đang được Quốc hội thảo luận đã dành 1 chương với 3 điều quy định các chính sách thích ứng với già hóa dân số bao gồm các dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc người cao tuổi tại nhà, cộng đồng cũng như phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi. Chính quyền địa phương cấp tỉnh cũng sẽ hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT cho người cao tuổi chưa có thẻ…

Nhiều đại biểu Quốc hội đều có chung nhận định, quy định như dự thảo là “quá thiếu” và “chưa đột phá” so với các vấn đề thích ứng với già hóa dân số.

Với 14 triệu người cao tuổi cần được chăm sóc y tế thường xuyên và 99% người cao tuổi được chăm sóc tại gia đình, nhu cầu dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc người già là rất lớn. Tuy nhiên, hệ thống chăm sóc chuyên nghiệp dành cho đối tượng này lại gần như chưa có. Tính đến năm 2024, Việt Nam mới có hơn 400 trung tâm chăm sóc người cao tuổi, phục vụ khoảng 11.000 người, một con số quá nhỏ bé so với 16,5 triệu người cao tuổi của VN hiện nay.

Tại sao các trung tâm chăm sóc người cao tuổi lại èo uột như vậy trong khi nhu cầu rất bức thiết và rất lớn? Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện – Giám sát Quốc hội Trần Thị Nhị Hà lý giải, Việt Nam đang thiếu hụt những hỗ trợ cần thiết về nguồn lực, đất đai và cả chính sách để những mô hình này có thể thành công. Theo bà Hà, khoảng trống này cần được bù đắp bằng luật Dân số. Những quy định chung về hỗ trợ, chăm sóc người cao tuổi như dự thảo là chưa đủ.

Còn TS Phạm Thị Lan cho rằng, dù có quy định nhưng việc chăm sóc người cao tuổi đang quá tập trung vào chăm sóc y tế mà chưa chú ý đến chăm sóc sức khỏe toàn diện. Tương tự, việc phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi chỉ đề cập đến nhân viên y tế lão khoa trong khi bỏ qua các nhóm chăm sóc khác.

Thực tế cho thấy, tình trạng già hóa dân số nhanh chóng đặt ra thách thức lớn với nhiều quốc gia, song cũng mở ra không gian phát triển kinh tế mới, được gọi là “kinh tế bạc” (hay còn gọi là “nền kinh tế tóc bạc”) – nền kinh tế phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng của người cao tuổi. 

Theo GS Giang Thanh Long, trong nền “kinh tế bạc”, người cao tuổi vừa là người tiêu dùng, vừa là người sản xuất và không có lĩnh vực nào không có “kinh tế bạc”. Quan trọng là nắm bắt đúng nhu cầu thị trường của người cao tuổi và khả năng chi trả của họ.

Việt Nam trước nỗi lo chưa giàu đã già - Ảnh 4.

Thị trường chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam dự kiến sẽ đạt 4,79 tỉ USD vào năm 2031, gấp hơn 2 lần mức 2,21 tỉ USD năm 2023

Ước tính năm 2020, doanh thu hàng hóa và dịch vụ liên quan đến “kinh tế bạc” trên thị trường toàn cầu đạt khoảng 15.000 tỉ USD và sẽ tăng lên 30,6 tỉ USD trong 5 năm tới. Nếu đứng độc lập, nền “kinh tế bạc” sẽ là nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, sau Mỹ và Trung Quốc. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Data Bridge Market Research (2024) chỉ riêng thị trường chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam dự kiến sẽ đạt 4,79 tỉ USD vào năm 2031, gấp hơn 2 lần mức 2,21 tỉ USD năm 2023.

Phó chủ tịch thường trực Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam Trương Xuân Cừ cho rằng, nguồn nhân lực “chất xám bạc” cũng là một phần của “kinh tế bạc”. Theo ông, cùng với việc chăm sóc người cao tuổi, cần việc phát huy người cao tuổi như một nguồn nhân lực và chủ thể đóng góp vào nền kinh tế.

Ông Cừ cho biết, với 16,5 triệu người cao tuổi (trên 60 tuổi) hiện nay, khoảng 7 triệu người vẫn đang lao động, tham gia sản xuất; 400.000 người vẫn là chủ hộ kinh doanh, chủ xí nghiệp, hợp tác xã. “Đóng góp của họ vào nền kinh tế là hết sức đáng kể”, ông Cừ nói, nhấn mạnh rằng, các chính sách phát huy vai trò của người cao tuổi trong dân số già là hết sức cần thiết.

Bà Trần Thị Nhị Hà đề nghị cần nhìn nhận người cao tuổi cũng là nguồn nhân lực chất lượng cao với kỹ năng và kinh nghiệm công tác. Nếu đủ sức khỏe lao động và có nguyện vọng, người cao tuổi hoàn toàn có thể tiếp tục tham gia thị trường lao động. Bà đề nghị bổ sung quy định vào dự thảo luật về chính sách việc làm cho người cao tuổi, trong đó quy định cụ thể điều kiện người cao tuổi được kéo dài thời gian làm việc tại cơ quan khi đến tuổi nghỉ hưu nếu có nguyện vọng.

Để có việc làm phù hợp với người lao động cao tuổi, GS Giang Thanh Long cho rằng, cần phải đồng bộ các chính sách và chương trình trên thị trường lao động cho người cao tuổi. Ông khuyến nghị nên học Thái Lan với chính sách đào tạo lại hoặc nâng cao tay nghề để người cao tuổi đáp ứng được yêu cầu thị trường, thậm chí hỗ trợ người cao tuổi khởi nghiệp trong lĩnh vực phù hợp với kinh nghiệm, kỹ năng của họ. Cần có các trung tâm việc làm kết nối chặt chẽ giữa người cao tuổi có nhu cầu làm việc với các cơ sở cung cấp việc làm (doanh nghiệp).

Cùng đó là các chính sách, chế tài cụ thể chống phân biệt tuổi tác trên thị trường lao động cũng như cơ chế để thanh kiểm tra, đảm bảo doanh nghiệp tuyển dụng lao động cao tuổi đúng vị trí và điều kiện làm việc.

Việt Nam trước nỗi lo chưa giàu đã già - Ảnh 5.

Già hóa dân số không phải là nguy cơ, mà là quy luật “không thể đảo ngược” khi một xã hội phát triển. Do đó, theo GS Giang Thanh Long, vấn đề lúc này không phải là “u ám” về dân số già.

Từ nay đến năm 2036, Việt Nam còn 11 năm của thời kỳ dân số vàng. Với 20 năm nghiên cứu về già hóa dân số, ông Long nói, đây là “cửa sổ cơ hội” ngắn ngủi nhưng mang tính quyết định, đòi hỏi Việt Nam phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để chuyển hóa lợi thế dân số thành động lực phát triển bền vững trước khi bước sang giai đoạn già hóa sâu.

Về kinh tế, Việt Nam cần xác định lại mô hình tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn vào năng suất và chất lượng lao động thay vì lao động giá rẻ. Việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng cao phải được xem là nhiệm vụ cấp thiết. 

“Đây là cách duy nhất để tận dụng hiệu quả lực lượng lao động trẻ, đồng thời tạo nền tảng nâng cao năng lực cạnh tranh khi dân số bước vào giai đoạn già hóa”, GS Long nói.

Về an sinh xã hội, hệ thống hiện nay cần được mở rộng và củng cố để bao phủ nhiều nhóm dân cư hơn, đặc biệt là lao động thuộc nhóm phi chính thức – những người có nguy cơ rất cao không có lương hưu khi về già. 

GS Long cũng khuyến nghị việc cân nhắc thí điểm, đánh giá và triển khai mô hình bảo hiểm chăm sóc dài hạn như ở Nhật Bản và Hàn Quốc nhằm giảm gánh nặng tài chính trong chăm sóc người cao tuổi khi số lượng và nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng.

“Cuối cùng, một nền tảng quan trọng là tạo cơ hội việc làm tốt để người trẻ có khả năng tích lũy tài chính”, ông Long nhấn mạnh. “Khi người lao động có thu nhập ổn định và đủ tích lũy, họ sẽ ít phụ thuộc vào hỗ trợ của Nhà nước khi về già, đồng thời giảm áp lực lên hệ thống an sinh trong tương lai. Đây không chỉ là chính sách kinh tế – mà còn là đầu tư dài hạn vào khả năng tự chủ của mỗi công dân khi Việt Nam bước vào xã hội già”, GS Long phân tích.

Cùng với tận dụng “cửa sổ cơ hội” còn lại của dân số vàng, theo UNFPA, chiến lược chủ động thích ứng già hóa dân số cần được thiết kế và triển khai ngay từ hôm nay theo hướng tích hợp và liên ngành – gắn kết các hệ thống y tế, xã hội và kinh tế – nhằm bảo đảm Việt Nam có thể thích ứng hiệu quả và công bằng trong quá trình chuyển đổi nhân khẩu học.

Việc lập kế hoạch phối hợp giữa các bộ, ngành và các cấp chính quyền sẽ đóng vai trò then chốt trong việc tăng cường khả năng thích ứng và bảo đảm phúc lợi cho cả thế hệ người cao tuổi hiện tại và tương lai. Không có chính sách nào mạnh mẽ hơn việc thay đổi nhận thức toàn xã hội – khi mỗi cá nhân chủ động chuẩn bị cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ. Cách tiếp cận toàn xã hội trong thích ứng già hóa dân số là điều hết sức cần thiết để bảo đảm mỗi người dân Việt Nam được hưởng tuổi già khỏe mạnh, hạnh phúc và có phẩm giá.

“Để bước vào giai đoạn dân số già, cần chủ động chuẩn bị nền tảng chính sách, dịch vụ và hệ thống an sinh ngay từ bây giờ để tận dụng thời gian còn lại của dân số vàng đồng thời chuẩn bị cho một dân số già, hướng tới sự khỏe mạnh và năng động của toàn bộ dân số. Một khi có dân số khỏe mạnh, trí tuệ và kỹ năng, Việt Nam có động lực lớn cho tăng trưởng cao và phát triển kinh tế trong thời gian tới”, GS Giang Thanh Long nói.


* Tên một số nhân vật trong bài đã được thay đổi.

* Bài viết sử dụng dữ liệu từ các báo cáo của UNFPA, World Bank, Cục Thống kê (Bộ Tài chính).

Nguồn: https://thanhnien.vn/viet-nam-truoc-noi-lo-chua-giau-da-gia-185251207163708518.htm

ThanhNien Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay