Nghĩa hội hình thành
Trần Văn Dư húy Tự Dư, thụy Hoán Nhược, sinh năm Kỷ Hợi (1839) tại làng An Mỹ Tây, H.Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay thuộc xã Tây Hồ, TP.Đà Nẵng), trong một gia đình có truyền thống Nho học. Ông đỗ tú tài khoa Mậu Ngọ (1858), đỗ Cử nhân ân khoa Mậu Thìn (1868), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ năm Ất Hợi (1875).

Chân dung Nguyễn Duy Hiệu
Cuối năm Quý Mùi (1884), Trần Văn Dư được điều về Quảng Nam giữ chức Sơn phòng sứ. Sơn Phòng là một tổ chức quân sự đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và kiểm soát các vùng biên giới, miền núi hiểm trở của đất nước. Vì vậy, sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn (tháng 7.1885), triều đình do Hoàng Thái hậu Từ Dụ nhiếp chính có xu hướng hòa hoãn với Pháp, nhận thấy việc Trần Văn Dư làm Sơn phòng sứ là điều bất lợi nên ra dụ điều chuyển ông vào làm Bố chính sứ Bình Thuận và cử Phó bảng Nguyễn Đình Tựu lên thay. Trần Văn Dư khước từ không nhận chỉ dụ, tuy vẫn bàn giao chức vụ, rồi bỏ về quê, không hợp tác với triều đình.

Chân dung Nguyễn Thành, một trong những yếu nhân của Nghĩa hội Quảng Nam
Tháng 7.1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, Trần Văn Dư cùng với Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Tiểu La Nguyễn Thành xướng xuất thành lập Nghĩa hội Quảng Nam, kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Tuy nhiên sau đó, các căn cứ lần lượt bị địch bao vây và thất thủ.
Trước tình thế nguy ngập đó, Trần Văn Dư đã giao binh quyền cho Nguyễn Duy Hiệu, còn ông tìm đường ra Huế gặp vua Đồng Khánh (học trò cũ) để thương thuyết, nhưng bị Quyền Tuần phủ sứ Quảng Nam Châu Đình Kế bắt giao cho Pháp rồi bị giết ngày 13.12.1885.
NHỮNG TRẬN ĐÁNH THOẮT ẨN, THOẮT HIỆN
Sau khi nhận sự phó thác của Trần Văn Dư, đầu năm 1886, Nguyễn Duy Hiệu chính thức làm Hội chủ mới của Nghĩa hội Quảng Nam.
Nguyễn Duy Hiệu sinh năm Đinh Mùi (1847) tại ấp Bến Trễ, xã Thanh Hà, H.Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc P.Hội An Tây, TP.Đà Nẵng). Năm 14 tuổi (1861) ông thi đỗ Tú tài, năm 29 tuổi (1876) đỗ Cử nhân, 3 năm sau (1879) đỗ Phó bảng, rồi ra làm quan tới chức Giảng tập, hàm Hồng lô tự khanh.

Mộ Nguyễn Duy Hiệu
Ảnh: Bảo tàng Quảng Nam
Năm Nhâm Ngọ (1882), Nguyễn Duy Hiệu được vua Tự Đức triệu vào cung làm thầy dạy học cho hoàng tử Ưng Đăng (sau là vua Kiến Phúc). Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, triều đình rối ren, trong thì các quan phụ chính đại thần thao túng triều chính, ngoài thì giặc Pháp xâm lược lần lượt Nam kỳ, rồi Bắc kỳ. Ngao ngán trước những cảnh tượng đó, viện cớ mẹ già không ai chăm sóc, ông cáo quan về quê.
Đảm nhận vai trò đứng đầu Nghĩa hội Quảng Nam, việc làm đầu tiên của Nguyễn Duy Hiệu là xây dựng căn cứ chiến đấu lâu dài tại Trung Lộc – Quế Sơn (nay thuộc xã Nông Sơn, TP.Đà Nẵng) và lập căn cứ Tân Tỉnh, biến nơi đây thành địa bàn trọng yếu, chỉ đạo mọi hoạt động của Nghĩa hội ở cả vùng. Ông cũng kêu gọi thân hào, nhân sĩ tuyển mộ và rèn luyện binh sĩ, sẵn sàng đối đầu với quân giặc.
Trước ưu thế của địch về vũ khí, Nghĩa hội đã vận động nhân dân thực hiện “không dân đất trắng”, tự đốt nhà, bỏ hoang làng xóm trước khi giặc đến. Trong khi đó, Nguyễn Duy Hiệu và những nhà lãnh đạo của Nghĩa hội chỉ huy nghĩa quân tổ chức những trận đánh thoắt ẩn, thoắt hiện làm cho quân Pháp hoảng loạn, mất phương hướng. Chỉ trong vòng hơn 2 năm, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Duy Hiệu, Nghĩa hội đã lập được nhiều chiến công, gây cho giặc tổn thất nặng nề.
Nhận thấy sự đe dọa của Nghĩa hội, quân Pháp và tay sai ra sức đàn áp phong trào kháng chiến của các thủ lĩnh Cần Vương.
Trước sự chênh lệch quá lớn về quân số và trang bị vũ khí giữa nghĩa quân so với quân Pháp cùng quân triều đình Đồng Khánh tay sai, Nghĩa hội dần rơi vào thế cô lập và suy yếu. Tháng 9.1887, giặc mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Tân Tỉnh – Trung Lộc, nghĩa quân đã chiến đấu kiên cường, nhưng cuối cùng căn cứ này rơi vào tay giặc. Phan Bá Phiến tự sát bằng thuốc độc, Nguyễn Duy Hiệu chọn cách đầu thú để bảo vệ những người còn lại. Tháng 10.1887, Nguyễn Duy Hiệu bị xử tử tại pháp trường An Hòa, Huế.
Trong tác phẩm Souvenirs d’Annam 1886 – 1890 (NXB Librairie Plon, Paris, 1890), Frédéric Baille (Khâm sứ Trung kỳ khoảng 1886 – 1889), cho biết về bản án của triều đình Đồng Khánh đối với Nguyễn Duy Hiệu như sau: “Bản án xử Hiệu tử hình được đệ dâng lên nhà vua, và vua phê dưới bản án bằng mực đỏ, cái dấu nhỏ quyết định ra lệnh phải thi hành không được chậm trễ. Cuộc hành hình xảy ra sáng ngày hôm sau”. Viên quan người Pháp trực tiếp chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Nguyễn Duy Hiệu, đã mô tả ông là người có vẻ ngoài “vững chãi, uy nghiêm”, có “ý chí sắt đá” và gọi ông là một “đối thủ đáng trọng”.
Cái chết của Nguyễn Duy Hiệu đã khép lại một giai đoạn đấu tranh oanh liệt nhưng đầy gian truân của phong trào Cần Vương Quảng Nam. (còn tiếp)
Nguồn: https://thanhnien.vn/140-nam-phong-trao-can-vuong-1885-2025-nguyen-duy-hieu-va-nghia-hoi-quang-nam-185251227195541346.htm

