TP HCMChuyển đổi xanh không còn là lựa chọn tự nguyện, mà là điều kiện sống còn để thành phố duy trì tăng trưởng và giữ vai trò đầu tàu kinh tế, theo ông Phạm Bình An, Viện phó Nghiên cứu Phát triển TP HCM.
VnExpress phỏng vấn ông Phạm Bình An, đồng phụ trách Đề án Chuyển đổi xanh TP HCM giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đề án được xây dựng theo chỉ đạo của UBND TP HCM, với sự hỗ trợ chuyên môn của các chuyên gia Trường Đại học VinUni, thông qua nhiều vòng hội thảo, lấy ý kiến doanh nghiệp, nhà khoa học và các sở, ngành liên quan.
ThS Phạm Bình An, Viện phó Nghiên cứu Phát triển TP HCM, trả lời phỏng vấn báo VnExpress chiều 23/12. Ảnh: Thanh Tùng
– Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Văn Được cho rằng chuyển đổi xanh giúp thành phố nâng cao năng lực cạnh tranh và giữ vai trò đầu tàu kinh tế. Mục tiêu này được thể hiện thế nào trong đề án?
– Điểm cốt lõi của đề án là xác định chuyển đổi xanh không phải câu chuyện môi trường hay từng lĩnh vực riêng lẻ, mà là chiến lược phát triển bền vững có tính tổng hợp cao, nhằm giúp TP HCM duy trì tăng trưởng và vai trò đầu tàu trong bối cảnh mới.
Với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, TP HCM buộc phải thích ứng với các hàng rào thương mại xanh đang hình thành rất rõ trên thị trường quốc tế, như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), tiêu chuẩn ESG hay các yêu cầu môi trường trong các FTA thế hệ mới. Chuyển đổi xanh vì vậy trở thành “tấm vé thông hành” để doanh nghiệp duy trì đơn hàng, giữ thị trường và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu không chuyển đổi, tăng trưởng sẽ bị chặn lại từ bên ngoài, chứ không chỉ do nội tại.
Về dài hạn, đề án hướng tới tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, từ nền kinh tế “nâu” thâm dụng tài nguyên sang kinh tế “xanh” dựa trên năng suất, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là cách để TP HCM tăng trưởng nhanh nhưng bền vững hơn, với các ngành mới như năng lượng tái tạo, tài chính xanh, logistics xanh, thị trường tín chỉ carbon và kinh tế tuần hoàn.
Một lợi thế quan trọng là đề án được đặt trong không gian TP HCM mới, gắn kết TP HCM (cũ) với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, hình thành siêu đô thị đóng góp hơn 23,5% GDP cả nước (năm 2025). Chuyển đổi xanh trở thành khung chiến lược chung để ba địa phương phát huy thế mạnh bổ trợ: TP HCM là trung tâm tài chính – công nghệ – thị trường; Bình Dương là hạt nhân công nghiệp; Bà Rịa – Vũng Tàu là trung tâm năng lượng và cảng biển.
Ngoài ra, chuyển đổi xanh giúp thành phố thu hút dòng vốn đầu tư thế hệ mới, gồm vốn xanh, vốn khí hậu và FDI chất lượng cao – những dòng vốn chỉ tìm đến các đô thị có hạ tầng xanh, năng lượng sạch và môi trường sống tốt.
– Nhiều ý kiến cho rằng “xanh” vừa xa xỉ vừa không liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và người dân. Ông nhìn nhận thế nào?
– Đây là tâm lý khá phổ biến và cũng dễ hiểu. 97% doanh nghiệp là vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, khu vực kinh tế phi chính thức còn chiếm tỷ trọng lớn. Trong khi chuyển đổi xanh thường gắn với hình ảnh công nghệ cao, chi phí lớn, nên nhiều người cho rằng đó là “chiếc áo khoác đắt tiền”.
Tuy nhiên, đề án tiếp cận vấn đề theo hướng ngược lại: không chuyển đổi xanh mới là đắt. Cụ thể:
Thứ nhất, về môi trường và khí hậu, TP HCM là một trong những đô thị chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, với nguy cơ ngập lụt, sụt lún, ô nhiễm không khí và quá tải rác thải. Nếu không đầu tư sớm để thích ứng, chi phí xử lý hậu quả trong tương lai sẽ lớn hơn rất nhiều. Chưa kể chất lượng sống và sức khỏe suy giảm do ô nhiễm.
Thứ hai, về kinh tế, thị trường quốc tế đang dịch chuyển rất nhanh. Doanh nghiệp không đạt chuẩn xanh sẽ mất đơn hàng, mất dòng vốn đầu tư, mất vị trí trong chuỗi cung ứng. Khi đó, cái giá phải trả không chỉ là chi phí môi trường, mà là mất tăng trưởng và việc làm.
Thứ ba, tài nguyên là hữu hạn. Nếu không tuần hoàn, không xanh sẽ cạn kiệt nguồn lực để phát triển.
Vì vậy, đề án nhấn mạnh chuyển đổi xanh có thể không rẻ trong ngắn hạn, nhưng là đầu tư bắt buộc để tránh những tổn thất lớn hơn trong dài hạn.
Khu chế xuất Tân Thuận được định hướng tái cơ cấu sang mô hình công nghệ cao, công nghệ xanh, hiệu quả, giảm ô nhiễm, thu hút FDI chất lượng cao. Ảnh:Quỳnh Trần
– Nhưng nhìn vào số tiền dự kiến để thực hiện chuyển đổi xanh trong 10 năm là 34 tỷ USD, tương đương 900.000 tỷ đồng, đây là con số rất lớn?
Trước hết, cần làm rõ 900.000 tỷ đồng là con số khái toán chiến lược, không phải ngân sách sẽ chi ngay.
Con số này được tính cho TP HCM mới trong giai đoạn 2026-2035, theo kịch bản hướng tới Net Zero. Bình quân mỗi năm khoảng 90.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 3% GRDP của siêu đô thị này. Đây là mức đầu tư phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngân hàng Thế giới từng khuyến nghị Việt Nam cần đầu tư khoảng 6-7% GDP mỗi năm cho thích ứng khí hậu và giảm phát thải.
Quan trọng hơn, ngân sách nhà nước không gánh toàn bộ. Cơ cấu nguồn vốn dự kiến gồm: khoảng 20% từ ngân sách nhà nước, đóng vai trò vốn mồi cho hạ tầng và chính sách; khoảng 45% từ khu vực tư nhân và PPP; khoảng 35% từ vốn quốc tế, ODA và các quỹ tài chính khí hậu.
Điều này có nghĩa là Nhà nước bỏ ra 1 đồng để huy động khoảng 4 đồng từ xã hội và quốc tế. Vì vậy, đây là đầu tư phát triển, không phải chi tiêu thuần túy.
– Nguồn lực này sẽ được phân bổ cho những nội dung nào?
– Đề án xác định 10 trụ cột chuyển đổi xanh và 48 chương trình, dự án trọng điểm.
Sáu trụ cột lĩnh vực gồm: năng lượng xanh; giao thông và logistics xanh; hạ tầng đô thị xanh; công nghiệp xanh; thương mại – dịch vụ – du lịch xanh; nông nghiệp và kinh tế biển xanh.
Bốn trụ cột nền tảng gồm: lối sống xanh và tiêu dùng bền vững; chính sách xanh; tài chính xanh; nguồn nhân lực xanh.
Trên cơ sở đó, thành phố lựa chọn các dự án ưu tiên như phát triển năng lượng tái tạo, mở rộng metro và giao thông công cộng xanh, xử lý rác bằng công nghệ cao, phát triển rừng ngập mặn Cần Giờ, xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon TP HCM.
Đây là đề án mang tính chiến lược, định hướng, nên chưa đi vào chi tiết nguồn lực cho từng dự án, mà tập trung tạo khung để sắp xếp và huy động nguồn lực. Trước mắt, thành phố sẽ triển khai các nội dung chi phí thấp nhưng hiệu quả cao như tập huấn, nâng cao nhận thức và tích hợp chuyển đổi xanh vào các chương trình, kế hoạch phát triển khác.
– TP HCM kỳ vọng đạt được những thay đổi gì trong 10 năm tới?
– Mục tiêu không chỉ là cải thiện môi trường, mà tạo chuyển biến thực chất về cấu trúc kinh tế, chất lượng sống và năng lực quản trị.
Đến năm 2030, thành phố đặt mục tiêu giảm tỷ lệ chôn lấp rác sinh hoạt xuống dưới 10%, từ mức khoảng 58% hiện nay; đến năm 2035 còn 5%. Trong giao thông, tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 15% vào năm 2030 và 25% vào năm 2035; toàn bộ xe buýt mới và taxi sử dụng điện hoặc năng lượng xanh từ năm 2030.
Về kinh tế, các ngành kinh tế xanh dự kiến đóng góp ít nhất 20% GRDP vào năm 2030 và tiến tới 40% vào năm 2050, đồng thời tạo ra làn sóng “việc làm xanh” chiếm khoảng 15% tổng việc làm vào năm 2030.
Song song đó là nâng cao năng lực quản trị đô thị thông qua Mô hình Trưởng thành Xanh và bộ chỉ tiêu định lượng, hướng tới quản trị dựa trên dữ liệu, công nghệ và trí tuệ nhân tạo.
Tài xế hai hãng xe sử dụng xe xăng và xe điện chạy trên đường trung tâm TP HCM. Ảnh: Thanh Tùng
– Lấy gì để đo đếm hiệu quả, tránh “bánh vẽ”?
– Điểm mới của đề án là chuyển từ đánh giá định tính sang đo lường bằng con số.
Thành phố xây dựng bộ 76 chỉ tiêu định lượng cho 10 trụ cột, từ tỷ lệ năng lượng tái tạo, tỷ lệ giao thông công cộng, đến tỷ lệ tái chế chất thải. Song song đó là Mô hình Trưởng thành Xanh, chia quá trình chuyển đổi thành 5 cấp độ, giúp biết thành phố đang ở đâu trên thang đo quốc tế.
Kết quả đánh giá sẽ được công khai trên nền tảng số, cho phép lãnh đạo, doanh nghiệp và người dân cùng giám sát, hạn chế tình trạng báo cáo hình thức.
– Nhiều địa phương cũng đang nói đến chuyển đổi xanh. Theo ông, điều gì tạo nên sự khác biệt để TP HCM có thể bứt phá và tiếp tục giữ vai trò dẫn đầu?
– Sự khác biệt của TP HCM không nằm ở việc nói nhiều hơn về môi trường, mà ở cách tiếp cận mang tính hệ thống và quy mô đủ lớn để tạo đột phá.
Thứ nhất là lợi thế “siêu đô thị” và sức mạnh cộng hưởng vùng. Đề án lần này không chỉ làm cho TP HCM theo ranh giới hành chính cũ, mà đặt trong không gian “TP HCM mới”, gắn kết với Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu. Ba địa phương này bổ sung cho nhau rất rõ: TP HCM là trung tâm tài chính, công nghệ và nhân lực; Bình Dương là hạt nhân công nghiệp; Bà Rịa – Vũng Tàu giữ vai trò năng lượng và cảng biển. Sự liên kết này tạo thành một hệ sinh thái khép kín, đủ quy mô để giải quyết những bài toán lớn mà từng địa phương riêng lẻ không thể làm, đồng thời hình thành một đầu tàu kinh tế chiếm hơn 23,5% GDP cả nước.
Thứ hai là phương pháp quản trị dựa trên dữ liệu và đo lường định lượng. Thay vì các kế hoạch theo kiểu định tính, TP HCM sử dụng bộ chỉ tiêu định lượng và Mô hình Trưởng thành Xanh để biết chính xác mình đang ở đâu và cần làm gì tiếp theo. Cách làm này tạo ra một “ngôn ngữ chung” giữa chính quyền, doanh nghiệp và nhà đầu tư, giúp việc triển khai và huy động nguồn lực minh bạch, hiệu quả hơn.
Thứ ba là chiến lược chuyển đổi kép: xanh gắn với số. TP HCM có lợi thế là trung tâm công nghệ, nên chuyển đổi xanh được đặt trên nền tảng hạ tầng số, dữ liệu và công nghệ như AI, IoT. Nhờ đó, thành phố không chỉ giảm phát thải, mà còn tối ưu chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý, thay vì mở rộng hạ tầng theo cách truyền thống.
Cuối cùng là yếu tố thể chế và con người. TP HCM có cộng đồng doanh nghiệp năng động và được trao cơ chế đặc thù để thí điểm các mô hình mới, từ sàn giao dịch tín chỉ carbon đến các khu vực phát thải thấp. Những “sandbox” này cho phép thành phố đi trước, thử trước và rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng.
– Lộ trình thực hiện được xác định ra sao?
– Giai đoạn nghiên cứu cơ bản đã hoàn tất trong năm 2025. Từ năm 2026, TP HCM sẽ bước vào giai đoạn triển khai theo chỉ đạo cụ thể của Ủy ban nhân dân Thành phố, bắt đầu bằng các hoạt động tích hợp và các kế hoạch, quy hoạch của Thành phố và khởi động các dự án ưu tiên.
Lê Tuyết
Nguồn: https://vnexpress.net/chuyen-doi-xanh-khong-con-la-chuyen-dat-re-ma-con-duong-buoc-phai-di-4997487.html

