Từng làm việc tại Nhà Trắng và Bộ Quốc phòng Mỹ, ông Phạm Đức Trung Kiên còn nổi tiếng vì đã “mặc cả” học phí, đưa hàng trăm nghiên cứu sinh sang Mỹ, với niềm tin “người Việt giỏi có tiếng”.
Tháng 10/2025, trường Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, Mỹ, vinh danh ông Phạm Đức Trung Kiên trong danh sách 100 cựu sinh viên tiêu biểu (Centennial Alumni Catalysts).
Ở tuổi 67, với ông, niềm tự hào lớn nhất không chỉ ở tấm bằng Stanford hay công việc tại Nhà Trắng năm 27 tuổi, mà còn là tấm vé thông hành đưa trí tuệ Việt ra thế giới.
VnExpress có cuộc trò chuyện với ông về hành trình hơn 30 năm “xây cầu” cho nền giáo dục hai nước.
Ông Phạm Đức Trung Kiên. Ảnh: Nhân vật cung cấp
– Cảm xúc của ông khi được Stanford vinh danh?
– Ở góc độ cá nhân, tôi nghĩ về bố mẹ. Hành trình về nước, đóng góp cho giáo dục của tôi luôn nhận được sự ủng hộ, tin tưởng của bố mẹ. Dù giờ đã ngoài 90 tuổi, ông bà luôn nhắc tôi “không bao giờ được quên cội nguồn” và “phải giúp đỡ người Việt Nam”. Tôi hạnh phúc vì biết bố mẹ sẽ tự hào về con trai mình.
Tôi còn hãnh diện vì người Việt Nam lại được biết đến nhiều hơn, qua những thành tựu giáo dục, thay vì chỉ gắn liền với ký ức về các cuộc chiến.
– Từng làm việc tại Nhà Trắng, văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, điều gì đã thúc đẩy ông bắt đầu hành trình hỗ trợ giáo dục tại Việt Nam từ những năm 1990?
– Gia đình tôi đến Mỹ năm 1977, khi tôi 19 tuổi. Bố mẹ luôn nhắc tôi rằng: “Con may mắn vì đã hoàn thành chương trình phổ thông ở trong nước”. Những kiến thức nền tảng đó chính là “vốn” để tôi vươn lên trên đất khách, hoàn thành chương trình cử nhân ở Đại học Colorado, thạc sĩ về Khoa học xã hội (MA) và Quản trị kinh doanh (MBA) ở Stanford, dù đôi mắt mờ dần do thoái hóa võng mạc.
Năm 1993, sau khi tham gia Ban chỉ đạo chiến lược của kế hoạch giải phóng Kuwait và tái lập ổn định tại vùng Trung Đông theo phân công của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, tôi trở về. Tôi tìm tới các trường THPT ngỏ ý trao học bổng cho học sinh cuối cấp, mong các em có thể vào trường đại học tốt, nhưng hầu hết bị từ chối.
Họ nghi ngại những người từng rời Việt Nam như tôi lắm, đến nỗi có hiệu trưởng từ chối gặp gỡ, bảo rằng việc tôi đến trường gây nhiều phức tạp.
Lúc đó, tôi thất vọng, nhưng bố mẹ đã ngăn tôi bỏ cuộc. Các cô chú, họ hàng cũng nói với tôi rằng hỗ trợ giáo dục Việt Nam là con đường đúng đắn nhất. May mắn cho tôi, qua lời giới thiệu của một số người quen, tôi biết tới quỹ VIFOTEC (Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam). Tôi gửi tiền ủng hộ tới quỹ, nhờ quỹ trao tới học sinh. Mọi thứ bắt đầu trơn tru, dễ dàng hơn.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long tiếp ông Phạm Đức Trung Kiên, hồi tháng 5/2025. Ảnh: VGP
– Đâu là bước ngoặt của ông trong hành trình này?
– Sự ra đời của Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation – VEF) vào năm 2003 chắc chắn là bước ngoặt của tôi. Khi đó, Nhà Trắng liên hệ, đề nghị tôi đến Washington để xây dựng VEF, nhằm hỗ trợ các tiến sĩ Việt sang Mỹ.
Lúc này, tôi đang ở Texas và mới lấy vợ được vài năm, con lại nhỏ. Tôi không biết mình sẽ làm thế nào. Tuy nhiên, tôi thấy có sự lôi cuốn của một lý tưởng, một sứ mệnh.
Chẳng phải tôi vẫn tìm cơ hội để đóng góp cho giáo dục Việt Nam ư? Đây chính là cơ hội đó, nên tôi đưa cả nhà tới Washington.
Trong năm đầu tiên vận hành VEF, tôi đặt mục tiêu đưa 20 người Việt qua Mỹ học tiến sĩ, tăng dần vào năm sau. Nhiều người hoài nghi, nói không thể kiếm được chừng đó người đủ trình độ để học, và gợi ý tôi làm ngược lại, tức là đưa giáo sư Mỹ qua Việt Nam giảng dạy.
Tôi không đồng ý vì nghĩ không lý nào 86 triệu dân Việt Nam lúc đó lại không tìm được 20 nhân tài. Tôi xin làm thử trong hai năm.
Năm đầu, chương trình chỉ tuyển được 13 người, nhưng nhanh chóng tăng lên 83 người trong năm thứ hai. Cái khó là học phí lúc đó tới 60.000 USD mỗi năm, chương trình tiến sĩ trong 4-5 năm. Trả hết thì chúng tôi không đủ, tôi chọn cách đi… mặc cả, xin giảm 50% học phí.
– Ông mặc cả thế nào?
– Tôi tìm gặp Chủ tịch Hiệp hội đại học Mỹ (AAU) và Viện Hàn lâm Mỹ, bởi đây là hai tổ chức có ảnh hưởng trong đào tạo sau đại học. Trong đó, Viện Hàn lâm cũng nhận tài trợ từ chính phủ, có trách nhiệm hỗ trợ VEF. Tôi thuyết phục lãnh đạo Viện, cùng tôi tới gặp chủ tịch AAU, cũng là hiệu trưởng Đại học Illinois tại Urbana-Champaign – một trường công lập có tiếng về đào tạo công nghệ.
Ông này cũng nằm trong đoàn giáo sư Mỹ tới Việt Nam để tuyển chọn nghiên cứu sinh theo chương trình của VEF. Nắm bắt được điểm mấu chốt này, tôi đề nghị giảm 50% học phí của Đại học Illinois tại Urbana-Champaign, khi đó đang là 46.000 USD mỗi năm, thì mới đưa nghiên cứu sinh Việt tới đây học. Số còn lại, trường sẽ hỗ trợ.
Ngoài ra, VEF chỉ trả hai năm đầu, nếu sau đó nghiên cứu sinh không vượt qua bài kiểm tra chất lượng của trường thì sẽ về nước với bằng thạc sĩ. Nếu đạt, họ được miễn học phí các năm sau. Tôi thấy như vậy là công bằng.
Vị chủ tịch đồng ý, vì ông biết sinh viên Việt Nam giỏi có tiếng, mà các đại học đều khao khát nhân tài. Cũng nhờ tầm ảnh hưởng của ông, hơn 100 đại học danh tiếng khác chấp thuận đề nghị của tôi sau đó, thậm chí miễn hoàn toàn học phí cho ứng viên của VEF.
Đến nay, Quỹ đã giúp hơn 400 người nhận bằng tiến sĩ, khoảng 130 người hoàn thành chương trình thạc sĩ tại Mỹ. Câu chuyện của VEF cho thấy, chúng ta có thể đào tạo nhân tài cho Việt Nam với giá rất rẻ, thậm chí miễn phí.
Ông Kiên cùng Sal Khan, Nhà sáng lập Khan Academy, tại Mỹ, tháng 12/2025. Ảnh: Nhân vật cung cấp
– Sau khi hỗ trợ lớp tinh hoa với VEF, tại sao ông lại rẽ hướng, đưa Khan Academy – một nền tảng học trực tuyến miễn phí, cho đại chúng, về Việt Nam?
– Khi tìm người để sang Mỹ học tiến sĩ – bằng cấp học thuật cao nhất, tôi luôn thầm nhủ phải tạo ra những con ngựa mạnh nhất để kéo cả đoàn tàu – ở đây là hơn 20 triệu học sinh trong nước. Mình không thể để bọn trẻ tụt hậu được. Muốn thay đổi diện mạo giáo dục quốc gia, phải tiếp cận được số đông.
Nhưng trông chờ lực kéo từ người khác sẽ mất nhiều thời gian, và không thể bền vững bằng phát triển tự thân. Vì thế năm 2008, tôi thành lập tổ chức phi lợi nhuận Vietnam Foundation (VNF) với mục tiêu đem đến cho học sinh Việt nguồn học liệu miễn phí, đạt chất lượng quốc tế.
Từ khoảng 2019, tôi bắt đầu kết nối với đội ngũ lãnh đạo Khan Academy – nền tảng học trực tuyến ở hơn 190 quốc gia với hơn 150 triệu học sinh khắp thế giới, thuyết phục họ cho tôi Việt hóa. Đến năm 2020, họ đồng ý đề nghị này.
Hiện, Việt Nam hiện có hơn 2 triệu học sinh sử dụng, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Brazil. Các em có thể xem bài giảng và các tài liệu học tập, làm bài thực hành và kiểm tra, ôn thi chứng chỉ…, hoàn toàn miễn phí.
Nền tảng này cũng tiếp cận được với hàng chục nghìn giáo viên ở khắp đất nước. Thầy cô có thể soạn và giao bài cho học sinh. Gần đây, chúng tôi còn ra mắt Khanmigo – công cụ AI hỗ trợ họ soạn bài và quản lý lớp học, cũng miễn phí.
– Điều gì khiến ông tâm đắc nhất trong việc này?
– Người ta hay nói rằng việc học trực tuyến với công nghệ, thiết bị thông minh là đặc quyền của học sinh đô thị, nhưng điều đó không đúng. Khan Academy đã có mặt ở nhiều vùng sâu ở Tuyên Quang, nơi gần 80% học sinh là người dân tộc thiểu số và sóng Internet còn chập chờn.
Ví dụ, ở trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Hồng Quang, trường Tiểu học Đoàn Kết, để học sinh có thể học trực tuyến, thầy cô tận dụng máy tính trên phòng Tin học, vận động phụ huynh hỗ trợ con, đồng thời mang máy tính cá nhân tới cho các em sử dụng.
Tôi cũng thấy những phụ huynh người Dao, người Tày – vốn chỉ quen nương rẫy, đến trường nhờ giáo viên hướng dẫn cách đăng nhập ứng dụng cho con học. Khát khao tri thức của người Việt rất mãnh liệt.
Đây cũng là thành quả từ sự kiên trì của giáo viên – những người vừa dạy học sinh ở trường, vừa “tập huấn” công nghệ cho phụ huynh.
Ông Kiên thăm trường Tiểu học Xuân Sơn, Quảng Ninh, tháng 8/2024. Ảnh: Nhân vật cung cấp
– Kế hoạch của ông thế nào trong 3-5 năm tới?
– Tôi vẫn đi con đường hiện tại. Hai triệu học sinh đã học trên Khan Academy, nghe thì rất nhiều nhưng mới chỉ là 10% trong hơn 20 triệu học sinh. Tôi phải đi nhanh hơn, mạnh hơn nữa.
Hàn Quốc hay Singapore từng nghèo khó nhưng nay đã là cường quốc giáo dục. Tôi mong một ngày thế giới nhắc đến Việt Nam như một biểu tượng của chất xám và sự đóng góp cho khoa học toàn cầu.
Nhưng tôi không thể làm được việc này một mình. Phát triển giáo dục là sứ mệnh của cả dân tộc.
Thanh Hằng
Nguồn: https://vnexpress.net/ong-pham-duc-trung-kien-nguoi-mac-ca-hoc-phi-cho-hang-tram-tien-si-viet-4995260.html

