Thứ hai, Tháng mười hai 22, 2025
HomeĐời SốngNhững huyền thoại duyên nợ với rừng

Những huyền thoại duyên nợ với rừng

Người hồi sinh cánh rừng nơi cửa biển

Xuôi về cửa biển xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu (cũ), trước khi ngắm cảnh biển hoang sơ ai cũng ghé thăm và trầm trồ trước bạt ngàn xanh của Rú Xước. Đó là cánh rừng do ông Lê Duy Nguyên dày công tạo dựng nhiều năm nay.

Ông Lê Duy Nguyên, sinh năm 1947 quê xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu (cũ), được mệnh danh là ông chủ số 1 trong làng doanh nghiệp trồng rừng cả nước. Năm 1991, khi vẫn đang là một giáo viên phụ trách phòng thí nghiệm vật lý, Trường chuyên Phan Bội Châu (tỉnh Nghệ An), trong chuyến về thăm quê ở xã Quỳnh Lập, khi ra vùng biển Bãi Chùa thuộc làng Đông Hồi rất đỗi hoang sơ liền với bãi cát đi lên Rú Xước, ông đau xót khi chứng kiến cả một vùng đất trống đồi núi trọc chỉ lơ thơ cây phi lao, bạch đàn, cây bản địa tái sinh và lau lách.

Sao không trồng phi lao, bạch đàn ở đây, vừa trồng rừng vừa bán được cây, lợi đôi bề? Ý nghĩ đó đã thôi thúc ông đến Sở Lâm nghiệp tỉnh Nghệ An rồi Hạt Kiểm lâm Quỳnh Lưu tìm hiểu cách trồng rừng và được đồng tình giúp đỡ. Tuy nhiên, khi ông bàn bạc với gia đình về ý tưởng nghỉ hưu non về trồng rừng liền bị phản đối kịch liệt. Vợ ông bảo, mình đang là công chức nhà nước, đang có vợ con êm ấm ở thành phố Vinh, cớ chi cứ nằng nặc đòi về nơi hẻo lánh sinh sống, thật là “đồ hâm, dở hơi…”. Ông ra sức thuyết phục rồi cuối cùng cũng được gia đình chấp thuận. Năm 1993, ông làm đơn nhận 168ha trong vòng 50 năm nhưng Hạt kiểm lâm vận động nhận ông cho đủ 1.000ha vì đất trống, đồi trọc đang còn nhiều. Vợ chồng ông đã dốc hết số vốn liếng tích cóp được từ lâu nay bao gồm năm lượng vàng và 250 triệu đồng cùng số tiền bán mảnh vườn của ông nội để lại đầu tư cho sự nghiệp trồng rừng.

Ông Lê Duy Nguyên bên gốc cây nhiều năm tuổi.

Ông Lê Duy Nguyên bên gốc cây nhiều năm tuổi.

Cuối năm 1993, lứa cây phi lao đầu tiên được ông Nguyên trồng phủ kín 10ha dọc bãi biển. Để phủ hết 1.000ha đất trống đòi o trọc, ông đã tìm cách huy động người dân, chủ yếu là bà con anh em gần đó cùng tham gia doanh nghiệp với mình, với phương thức “doanh nghiệp trả gạo mỗi công lao động, bảo đảm đủ ăn trong ngày; liên tục như vậy cho đến khi thu hoạch. Chủ doanh nghiệp hưởng 20% giá trị sản phẩm rừng, người lao động hưởng 80%”. Phương thức đó đã thu hút được 60 lao động là người dân làng Đông Hồi tham gia. Mỗi ngày ông cùng nhân dân gánh hàng vạn cây giống, hàng trăm thùng nước ì ạch leo lên từng quả đồi trọc để trồng và tưới cho cây. Giữa năm 1994, ông quyết định tăng 0,5kg gạo/người/ngày công và sau đó tăng lên 2-3kg/người/ngày công. Năm 2000 khi đã trồng được 300ha rừng bạch đàn, keo và 267ha rừng thông, phi lao thì ông bỏ phương thức này, chuyển sang trả công cho mỗi lao động 25 nghìn đến 28 nghìn đồng/ngày. Khi rừng bén rễ, xanh tốt thành rừng thì đủ loại chim muông về trú ngụ.

Năm 2004 rừng đã cho thu hoạch lứa đầu, được 1,5 tỷ đồng. Ông tính toán, cứ theo kiểu thu hoạch “cuốn chiếu” thì mười năm nữa riêng vùng rừng thông sẽ cho 1,2 tỷ đồng tiền nhựa/năm trong chu kỳ 50 năm. 300ha bạch đàn, keo có giá trị 9 tỷ đồng/năm trong thời gian tái sinh tám năm. Không dừng lại ở đó, ông chuyển sang ý tưởng trồng cây lim. Theo ông, sở dĩ người ta ít trồng lim là do gần 100 năm sau mới cho thu hoạch lâu quá. Nhưng với ông, rừng chia làm hai khu vực là rừng sản xuất để trồng cây ngắn ngày như keo, thông, cây bản địa còn trồng lim dài ngày trở thành rừng bảo tồn truyền thống do chu kỳ phát triển dài nên tính chất bảo vệ môi trường của rừng lim càng bền vững. Hiện, trên rừng ông Nguyên đã trồng được khoảng 1 nghìn cây lim phát triển tốt.

Ông Lê Duy Nguyên (hàng sau cùng, thứ ba bên phải sang) ngồi giải lao cùng công nhân trong rừng.

Ông Lê Duy Nguyên (hàng sau cùng, thứ ba bên phải sang) ngồi giải lao cùng công nhân trong rừng.

Khi rừng đã được phủ xanh, có chút vốn liếng, bằng cách  lấy ngắn nuôi dài, ông đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông dài 3km để đi kiểm tra, bảo vệ rừng. Đường còn là băng cản lửa, ứng phó với hỏa hoạn. Cùng với mở đường là ngăn đập xây hồ chứa nước để giữ độ ẩm cho rừng, để có nước phòng cháy chữa cháy rừng. Hiện trong khu rừng ông Nguyên có 5 hồ chứa, mỗi hồ  trữ lượng khoảng 500m3 nước.

Không chỉ trồng rừng, năm 1996 khi  hươu sao mất giá, người ta đưa vào các nhà hàng xẻ thịt. Thấy xót xa, ông đi vay tiền bạn bè, người thân mua hơn 60 con cùng với 30kg rùa thả vào rừng. Sau này ông còn mua thả thêm một số cá thể động vật hoang dã khác như khỉ, chồn, nai, tắc kè… Bây giờ trong khu rừng đã phát triển nhiều cá thể khác. Với một tình yêu mãnh liệt, lúc sinh thời cho đến lúc đột ngột qua đời, ngày nào ông cũng lên cánh rừng của mình bè bạn với cây cối, muông thú.

Bây giờ về vùng Rú Xước, Đông Hồi, chúng ta gặp một cánh rừng đã thực sự hồi sinh trở thành đại ngàn nơi của biển. Sau khi ông Nguyên mất, con trai ông là Lê Duy Khánh đã tiếp nối sự nghiệp của người cha về giấc mơ cánh rừng nguyên sinh, với ý tưởng mới về xây dựng rừng thành khu vườn đa dạng sinh học…

Nguồn: https://nhandan.vn/special/Bai1_Nhung_huyen_thoai_duyen_no_voi_rung/index.html

NhanDan Logo

Hello Mình là Cải

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Mới nhất
Cũ nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Tin Nóng Hôm Nay