Chi tiêu y tế bình quân đầu người ở Việt Nam hiện 270 USD một năm, tức khoảng 7,3 triệu đồng và chủ yếu cho thuốc, dự báo lên 328 USD (gần 9 triệu đồng) trong ba năm tới.
“Chi tiêu y tế tại Việt Nam ngày càng cao với tốc độ gia tăng trung bình khoảng 7-8% mỗi năm”, TS.BS. Ong Thế Duệ, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế, cho biết tại hội thảo đối thoại chính sách về Giải pháp chia sẻ rủi ro trong y tế nhằm tăng cường tiếp cận thuốc cho người bệnh, do Bộ Y tế phối hợp với AstraZeneca Việt Nam, tổ chức hôm 24/12 tại Hà Nội.
Cụ thể, tổng chi tiêu y tế cả nước tăng từ 17,4 tỷ USD năm 2019 lên 27,5 tỷ USD năm 2025. Dự báo, đến năm 2028, con số này tăng lên 34,1 tỷ USD. Chi phí này kéo theo mức chi tiêu bình quân đầu người cho y tế ngày càng cao, từ 270 USD một năm hiện nay có thể lên 328 USD trong ba năm tới. Năm 2019 trung bình mỗi người Việt chi hơn 150 USD cho y tế.
Trong tổng chi tiêu y tế, chi phí thuốc vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Giai đoạn 2019-2025, tổng chi tiêu thuốc tăng từ 4,7 tỷ USD lên 6,9 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng bình quân khoảng 6-7%/năm. Dự báo đến năm 2028, quy mô thị trường dược phẩm đạt khoảng 8,6 tỷ USD, phản ánh nhu cầu sử dụng thuốc ngày càng lớn của người dân. Hiện, chi phí thuốc chiếm hơn 30% trong các nhóm chi tiêu của bảo hiểm y tế (BHYT).
Việt Nam hiện là thị trường dược phẩm lớn thứ hai Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia và vượt qua Thái Lan, Philippines, Malaysia.
TS Duệ cho hay xu hướng chi tiêu cho y tế, đặc biệt là tiền thuốc ngày càng tăng do chịu tác động của nhiều yếu tố. Trong đó, già hóa dân số và gia tăng bệnh không lây nhiễm (tim mạch, đái tháo đường, ung thư…) làm tăng nhu cầu điều trị dài hạn và sử dụng thuốc thường xuyên. Bên cạnh đó, mức sống và kỳ vọng chất lượng điều trị được cải thiện, kéo theo nhu cầu đối với thuốc biệt dược, thuốc thế hệ mới và thuốc điều trị chuyên sâu có chi phí cao hơn.
Chi phí thuốc tăng nhanh tạo ra áp lực đáng kể lên người bệnh và hệ thống BHYT, đặc biệt đối với các thuốc điều trị dài ngày và thuốc giá cao. TS Duệ phân tích thuốc mới thường có giá cao, nếu áp dụng cơ chế chi trả truyền thống có thể dẫn đến không bổ sung được thuốc vào BHYT, nhưng nếu bổ sung sẽ gây áp lực lớn đến quỹ BHYT. Một số thuốc mới, đặc biệt là thuốc hiếm, thường chưa có đầy đủ dữ liệu lâm sàng tại thời điểm được phê duyệt. Chờ đủ bằng chứng để dùng thì người bệnh mất cơ hội tiếp cận thuốc, còn bổ sung ngay mà không có điều kiện kèm theo sẽ gây rủi ro cho ngân sách BHYT.
Trong bối cảnh này, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần có cơ chế chia sẻ rủi ro (Risk Sharing Scheme – RSS) trong việc tiếp cận thuốc. Giải pháp chia sẻ rủi ro là cơ chế thỏa thuận đa bên giữa cơ quan quản lý, cơ quan chi trả và nhà sản xuất thuốc. Đây có thể là cơ chế thỏa thuận dựa trên tài chính, dựa trên kết quả, hoặc dựa trên dịch vụ kèm theo, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thuốc cho người bệnh, hạn chế rủi ro ngân sách và hướng đến duy trì tính bền vững của quỹ BHYT.
“Giải pháp chia sẻ rủi ro giúp hệ thống bảo hiểm y tế kiểm soát rủi ro tài chính trong khi vẫn đảm bảo tăng cường tiếp cận sớm cho bệnh nhân với thuốc mới”, TS. Nguyễn Khánh Phương, Viện trưởng Chiến lược và Chính sách Y tế, nói.
Nhiều quốc gia đã áp dụng Giải pháp chia sẻ rủi ro như một công cụ chính sách quan trọng. Như tại Anh, Quỹ thuốc ung thư (Cancer Drugs Fund – CDF) thành lập năm 2011 với ngân sách cố định 340 triệu bảng mỗi năm, nhằm cho phép bệnh nhân tiếp cận sớm các thuốc ung thư khi chưa có đủ bằng chứng, đồng thời thu thập thêm dữ liệu thực tế. CDF kết hợp cả cơ chế tài chính và dựa trên kết quả để giảm rủi ro cho hệ thống y tế nếu thuốc không đạt hiệu quả như kỳ vọng. Sau tối đa hai năm, Viện Quốc gia về Y tế và Chăm sóc Chất lượng cao (NICE) đánh giá lại thuốc dựa trên dữ liệu thu thập được và quyết định đưa vào chi trả thường quy hoặc từ chối chi trả. Trong giai đoạn 2016-2023, chương trình mang lại lợi ích cho 88.300 bệnh nhân với 102 thuốc và 241 chỉ định.
Bệnh nhân chờ khám bệnh tại Bệnh viện Ung Bướu TP HCM cơ sở 2, TP Thủ Đức. Ảnh: Quỳnh Trần
Bà Lương Thị Mai Anh, Vụ Pháp chế, Bộ Y tế, cho rằng Việt Nam có thể cân nhắc xây dựng lộ trình thí điểm – đánh giá – mở rộng, kết hợp khung pháp lý, chuẩn dữ liệu và cơ chế giám sát minh bạch để triển khai thành công.
“RSS hiệu quả khi chọn mô hình phù hợp năng lực, đặt mục tiêu kép chi phí và chất lượng, chuẩn hóa dữ liệu và giám sát, minh bạch qua kiểm toán, hợp tác giữa các bên và có cơ chế đánh giá, cải tiến định kỳ”, bà nói.
Lê Nga
Nguồn: https://vnexpress.net/nguoi-viet-trung-binh-chi-hon-7-trieu-dong-mot-nam-cho-y-te-4997605.html

