Từ khi ra đời ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cũng trong 95 năm qua, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đổi mới và phát triển, đạt nhiều thành tựu vĩ đại, lịch sử.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đối ngoại và ngoại giao góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1930-1975):
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền tảng lý luận cho ngoại giao Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Ngay từ những văn kiện đầu tiên như Chính cương và sách lược vắn tắt (02/1930), Luận cương chính trị (10/1930), Đảng đã xác định tầm nhìn chiến lược khi xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, với nhiệm vụ “liên kết những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới” [1]. Từ nhận thức này, Đảng đã đề ra sách lược tập hợp lực lượng cả trong nước và quốc tế, đặt nền móng cho tư tưởng đoàn kết quốc tế trong ngoại giao Việt Nam.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng chỉ đạo này được phát triển toàn diện và có hệ thống trong Thông cáo về chính sách đối ngoại (3/10/1945). Văn bản không chỉ tuyên bố với quốc tế về mục tiêu kép của ngoại giao Việt Nam – vừa bảo đảm “sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” của dân tộc, vừa đóng góp vào việc “cùng các nước Đồng minh xây dựng nền hòa bình thế giới”, mà còn xác định rõ phương châm “lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương làm nền tảng” [2] và triển khai linh hoạt “bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết” [3].
Trong giai đoạn 1945-1946, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng ngoại giao Việt Nam càng được hoàn thiện và phát triển sâu sắc. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, giữa kiên định nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược, đúc kết trong câu nói mang tầm triết lý sâu sắc: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó, yếu tố “bất biến” chính là sự kiên định với mục tiêu tối thượng bảo đảm độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia – dân tộc; còn “vạn biến” là phương pháp chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai để đạt được mục tiêu đó trong mọi hoàn cảnh. Những tư tưởng chỉ đạo này không chỉ tạo nền móng vững chắc cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, mà còn tiếp tục là kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này.
Trong hai cuộc kháng chiến, Đảng đã vận dụng sáng tạo phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao. Chiến lược này phát triển từ quan điểm “đánh – đàm” riêng biệt thành phương châm “vừa đánh vừa đàm” toàn diện, thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt nhằm tận dụng mọi con đường để đạt mục tiêu độc lập dân tộc và hòa bình. Trong kháng chiến chống Pháp, chiến lược này đã đưa đến những thành công ngoại giao quan trọng như việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), tạo điều kiện cho ta củng cố lực lượng. Đỉnh cao là Hiệp định Geneva (20/7/1954), đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự công nhận quốc tế về độc lập, chủ quyền của Việt Nam.
Bước sang kháng chiến chống Mỹ, vai trò của ngoại giao được nâng tầm chiến lược. Từ chỗ “ngoại giao tâm công” được phát huy để xây dựng và mở rộng mặt trận đoàn kết quốc tế ủng hộ Việt Nam và “tiến công địch về ngoại giao” với “vai trò quan trọng, tích cực, chủ động” [4]. Đến Nghị quyết của Bộ Chính trị (4/1969), lần đầu tiên ngoại giao đã được nâng tầm thành “một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược” [5] với đỉnh cao là Hiệp định Paris (1973), tạo bước ngoặt quan trọng dẫn tới Đại thắng mùa Xuân 1975. Thành công này minh chứng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thắng lợi quân sự trên chiến trường với đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán, góp phần quyết định vào việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nguồn: https://nhandan.vn/nhung-buoc-tien-vuot-bac-ve-doi-ngoai-duoi-su-lanh-dao-cua-dang-post857834.html