Chính phủ đang có chủ trương xây dựng chính sách hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc quy mô lớn. Vậy “doanh nghiệp dân tộc” là gì? Báo Dân trí có cuộc trò chuyện với ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế của Liên đoàn thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), xung quanh chủ đề này.
Ông Đậu Anh Tuấn trò chuyện cùng báo Dân trí. Video: Phạm Tiến


-Năm 2026 là một năm rất đặc biệt, đánh dấu bước chuyển giao nhiệm kỳ của Đảng, của Quốc hội và bộ máy chính quyền các cấp. Đây là năm triển khai hàng loạt chính sách quan trọng đã được ban hành vừa qua, từ vận hành bộ máy cơ quan, chính quyền sau khi sắp xếp đến thực hiện loạt nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng thực hiện pháp luật, hội nhập, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế v.v.
Đây cũng là năm chính thức bước vào giai đoạn “kỷ nguyên mới” với mục tiêu tham vọng: Tăng trưởng 2 con số, không chỉ trong năm 2026 mà cả những năm tiếp sau. Có thể nói đây là năm mà Việt Nam đang tự đặt mình vào một đường ray chạy với tốc độ rất cao. Có thể thấy hàng loạt dự án lớn đang sẵn sàng triển khai, không khí phát triển bao trùm khắp mọi nơi.
Là năm đánh dấu bước chuyển mình rất mạnh mẽ của đất nước, dưới con mắt của giới doanh nghiệp, doanh nhân, sẽ có nhiều cơ hội đầu tư, làm ăn trong năm tới. Cá nhân tôi hy vọng, nếu tập trung cao, Việt Nam có thể nhanh chóng đạt được những mục tiêu quan trọng, chẳng hạn như vươn lên trở thành một nước phát triển trong tương lai không xa.


-Tất nhiên mọi thứ luôn có mặt này mặt khác, chúng ta không thể kỳ vọng mọi thứ đều màu hồng. Cũng sẽ có những thách thức rất lớn. Nhưng tôi nghĩ rằng, thế mạnh của chúng ta là tinh thần nhất trí cao, sự đồng tâm, hiệp lực cho mục tiêu phát triển của đất nước.
Việc chú trọng vào mục tiêu phát triển gắn với mong muốn nâng cao tầm vóc, vị thế của quốc gia, mang lại lợi ích cho người dân, khiến cuộc sống của người dân tốt đẹp hơn. Khi mục tiêu phát triển đạt được thì chắc chắn những mục tiêu về an sinh xã hội, về giáo dục, về chăm sóc y tế cho người dân, về an ninh quốc phòng, về vị thế của quốc gia trên trường quốc tế cũng sẽ cải thiện. Chúng tôi hiểu được sự sốt ruột và khát vọng đó của những người đứng đầu đất nước.
Đặt mục tiêu phát triển cũng có nghĩa là phải tạo lập một môi trường kinh doanh tốt nhất, thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển. Có nghĩa là khi đã ưu tiên cho sự phát triển thì bất cứ một chính sách nào cản trở mục tiêu này, cản trở phát triển đều phải loại bỏ, phải thay đổi. Như vậy, từ góc nhìn của giới kinh doanh, đây là thời cơ rất tốt, khởi đầu cho một giai đoạn đáng mong chờ.
Nhiều người bạn của tôi ở các quốc gia trong khu vực gần đây có chia sẻ, họ phần nào cảm thấy “sốt ruột” cho nước họ trước những thay đổi của Việt Nam. Tất nhiên cũng sẽ có những thách thức kèm theo, như làm sao để giảm khoảng cách chênh lệch trong xã hội. Song, với chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau”, những chương trình về an sinh xã hội, nhà ở cho người nghèo, cho những người bị mất nhà ở trong thiên tai đã triển khai phần nào cho thấy, Việt Nam trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng cũng rất chú ý tới những tác động không mong muốn và có những giải pháp để giảm thiểu. Bên cạnh đó, những chính sách liên quan bảo vệ môi trường cũng được chú trọng.
Như vậy, đặt mục tiêu phát triển cao không có nghĩa là chúng ta hy sinh những mục tiêu khác mà sẽ tìm giải pháp để giải quyết vấn đề.

Tôi nghĩ rằng, những ai đau đáu với sự tụt hậu của nền kinh tế, sự tụt hậu vị thế của đất nước thì sẽ có sự chia sẻ về tầm nhìn, sự sốt ruột và có những hành động thực tiễn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước. Tôi nói chuyện với nhiều doanh nhân, doanh nghiệp, nhiều người ở nhiều giới khác nhau và cũng chứng kiến tinh thần hứng khởi của họ trước vận hội mới.
Rõ ràng, nếu Việt Nam có thể giữ được nhịp phát triển tốt trong một thời gian đủ dài thì vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế chắc chắn sẽ tốt lên, cuộc sống của người dân được cải thiện và đất nước sẽ đạt được những mục tiêu đang theo đuổi.


-Khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” không phải được đề cập lần đầu tiên mà đã xuất hiện từ nhiều năm trước. Ở đây chúng ta phải hiểu được nội hàm của khái niệm này.
Đầu tiên là nói đến tính tự lực, tự cường của doanh nghiệp Việt Nam, của đất nước Việt Nam. Đó là doanh nghiệp của người Việt, đang hoạt động tại Việt Nam.
Chúng ta không thể chỉ say sưa với những thành tích xuất khẩu, thành tích tăng trưởng mà chủ thể đóng góp chính lại là những tập đoàn lớn có yếu tố nước ngoài (FDI). Cần khẳng định đầu tư nước ngoài rất cần thiết, nhưng cũng cần lưu ý, một nhà đầu tư có thể đến rất nhanh nhưng cũng có thể đi rất nhanh. Họ có thể mất khoảng một vài tuần, vài tháng để xây dựng một nhà xưởng ở Việt Nam và cũng chỉ mất một vài tuần để có thể nhanh chóng rời khỏi Việt Nam. Chỉ có người Việt Nam sống trên mảnh đất này mới gắn bó trọn đời, nhiều đời, hơn ai hết là những người chia sẻ lợi ích, giá trị và cả những bức xúc ở đây. Tính dân tộc có sự kết nối qua nhiều thế hệ và có một bề dày thời gian.
Thứ hai, trong khái niệm “doanh nghiệp dân tộc”, sản phẩm và hoạt động của doanh nghiệp phải gắn liền với dân tộc, với đất nước. Hàng hóa, sản phẩm của doanh nghiệp gắn với 2 chữ “Việt Nam”, đó chính là đại sứ thương hiệu quốc gia. Cũng như rất nhiều người Việt chưa từng đến Nhật Bản nhưng vẫn rất ngưỡng mộ người Nhật thông qua các sản phẩm hàng ngày với chất lượng tốt, độ bền cao. Như vậy, mối thiện cảm của người Việt đối với Nhật Bản được củng cố và tăng lên.
Sản phẩm của Việt Nam khi hiện diện trên khắp 195 quốc gia nếu mỗi sản phẩm đều khẳng định được chất lượng tốt, giá cả hợp lý và cần thiết cho cuộc sống người tiêu dùng thì cũng đồng nghĩa với sự hiện diện tích cực của thương hiệu Việt Nam trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, mỗi doanh nghiệp Việt đều cần nhận thức rõ về sứ mệnh của mình là đang chuyển tải hình ảnh của Việt Nam, mang giá trị Việt Nam ra thế giới, là đang xây đắp hình ảnh đất nước, quê hương Việt Nam trong lòng người dân các nước. Đó chính là tinh thần dân tộc của mỗi doanh nghiệp, chứa đựng trong từng sản phẩm, từng mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất.

Ngay cả khi một số doanh nghiệp chưa nghĩ tới điều này, nhưng chỉ cần họ nỗ lực tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt cho người dùng, không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng, uy tín cho sản phẩm, thì theo tôi họ vẫn là những doanh nghiệp dân tộc đang xây dựng giá trị cho đất nước.
Tóm lại, thay vì những nội hàm mang tính kỹ thuật phức tạp thì có thể hiểu, doanh nghiệp dân tộc là những doanh nghiệp gắn bó lâu dài, truyền đời với mảnh đất Việt Nam, mang trong mình tinh thần tự lực tự cường, tạo nên giá trị cho đất nước.
Gần đây Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhiều lần nhấn mạnh sức mạnh tự thân, tự cường của dân tộc Việt Nam. Hơn bao giờ hết, giá trị của Nghị quyết 68 về phát triển Kinh tế tư nhân là dựa trên tinh thần tự lực tự cường. Đây là khu vực đóng góp quan trọng nhất cho sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn tới. Mỗi doanh nghiệp là một chủ thể đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của đất nước, cho hình ảnh của quốc gia, cho sự vững bền của dân tộc.

Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế cũng như mọi mặt của cuộc sống sẽ thấy những chuyển biến cực kỳ nhanh chóng của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Đơn cử như ở lĩnh vực bán lẻ, trước đây người dân vào cửa hàng mậu dịch mới mua được, nhưng hiện nay, từ những nhà hàng năm sao theo tiêu chuẩn quốc tế cho đến những quán vỉa hè, chúng đều thấy sự năng động, sáng tạo, mang dấu ấn của khu vực kinh tế tư nhân.
Tôi là người đi công tác nhiều nơi, nhưng phải nói rằng khi ở một nhà khách của Nhà nước quản lý sẽ rất khác so với một khách sạn tư nhân, từ hạ tầng đến chất lượng dịch vụ, phong cách quản trị. Không hiểu sao, cơ sở do Nhà nước quản lý thường có “cái mùi” rất khác các cơ sở của tư nhân!
Không chỉ lĩnh vực dịch vụ ai cũng dễ thấy, mà tại nhiều lĩnh vực khác cũng rất dễ dàng cảm nhận về luồng gió kinh tế tư nhân. Ví dụ ở lĩnh vực nông nghiệp, một lãnh đạo tỉnh kể lại với tôi, khi anh còn là Bí thư của một huyện, hàng năm Nhà nước đều phải cấp tiền mua bò, cứu đói cho đồng bào để người dân đủ sống, và giữ rừng. Tuy nhiên, sau khi anh quyết tâm thu hút một doanh nghiệp trong lĩnh vực dược liệu xuất khẩu về, bà con có người mua nông sản dược liệu và kể từ đó, đời sống trở nên sung túc hơn, không còn phải phá rừng và thậm chí giữ rừng vì dược liệu sống dưới tán rừng. Nhà nước không còn phải chi trợ cấp mua gạo, mua trâu, bò như trước nữa. Như vậy, doanh nghiệp ở đây còn có đóng góp trong công tác bảo vệ rừng, giải quyết an sinh xã hội.
Từ nhiều trải nghiệm khác, mọi người có lẽ cũng đều chung cảm nhận và thấy được sự ưu việt của kinh tế tư nhân. Tôi còn nhớ câu chuyện của một vị lãnh đạo doanh nghiệp. Ông kể về một sân vận động, khi Nhà nước tài trợ thì chẳng khác nào “con nghiện”, tiêu tốn rất nhiều tiền nhưng không mang lại hiệu quả; sau khi giao cho doanh nghiệp tư nhân quản lý thì lập tức khang trang, lịch sự và có ngay một câu lạc bộ bóng đá. Ngoài việc phục vụ tập luyện, thi đấu, sân vận động đó còn thường xuyên diễn ra những hoạt động văn hóa, ca nhạc. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân đang hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống và đã chứng minh được tính hiệu quả.
Có thể trước đây, đâu đó vẫn có những nghi ngại về vai trò, tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân. Chắc chỉ mới hơn 10 năm trước, có những lãnh đạo từng trải lòng với tôi về việc mỗi khi trò chuyện, trao đổi với các doanh nghiệp tư nhân vẫn có những “lời ra tiếng vào”, sợ rằng có lợi ích nào đó hay không. Nhưng dần dần, cái nhìn với doanh nghiệp tư nhân đã có sự thay đổi rõ rệt. Đặc biệt là với Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, tôi tin giờ đây tâm lý e ngại ấy không còn nữa.

Khu vực kinh tế tư nhân đang khẳng định sự đóng góp quan trọng, hiệu quả vào nền kinh tế, có vai trò trung tâm trong nhiều chính sách, như chính sách phát triển nông nghiệp theo định hướng hàng hóa, hay gần đây là chính sách về khoa học công nghệ. Đây là định hướng hoàn toàn đúng đắn, khơi thông nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển và sẽ tạo ra những tác động tích cực cho đất nước thời gian tới.

-Tôi thấy Việt Nam có lợi thế là có một nền sản xuất tự lực. Qua giai đoạn dịch Covid mới thấy, việc nền sản xuất có thể tự chủ được là rất quan trọng và có ý nghĩa vô cùng lớn. Một số quốc gia khi trải qua biến cố, bị ngắt nguồn cung hàng hóa, phải đối mặt với những rủi ro rất cao, đặc biệt là rủi ro về an ninh.
Khi có một nền sản xuất thì chúng ta có thể tự lực, tự cường và có thể xuất khẩu. Khi có năng lực tự lực, tự cường thì nền kinh tế có thể đứng vững được trên đôi chân của mình bất kể thế giới bên ngoài xảy ra bất ổn, xung đột. Từ đó, vị thế trên trường quốc tế cũng được khẳng định.
Vai trò của Việt Nam đã được nâng lên đáng kể khi tự chủ được gạo và thậm chí có gạo xuất khẩu, được rất nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao. Nhìn rộng ra thế giới, các cường quốc hoặc những quốc gia có vai trò quan trọng trong việc chế tạo, sản xuất những mặt hàng nhất định thường có vị thế cao trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Khi hàng hóa của chúng ta ngày càng quan trọng, càng phủ khắp thế giới thì địa chính trị, vị thế, tiếng nói của quốc gia cũng nâng cao.
Mặt khác, một khi công nghiệp nội địa phát triển cũng tác động quan trọng tới an ninh, quốc phòng, một khi các doanh nghiệp trong lĩnh vực cơ khí, chế tạo máy, điện tử phát triển hơn thì chắc chắn năng lực sản xuất thiết bị vũ khí, năng lực quốc phòng cũng sẽ được đảm bảo hơn.
Trên thực tế, hiện nay một số quốc gia hàng đầu vẫn hướng đến chính sách tăng cường năng lực sản xuất, tìm mọi cách để khôi phục sản xuất, buộc sản xuất quay về nước, chẳng hạn Mỹ. Vậy thì tại sao chúng ta không tự nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia mình? Sự tự chủ, cải thiện năng lực trong những ngành sản xuất quan trọng, những ngành cốt lõi như cơ khí, vật liệu, năng lượng… theo tôi, là một điều thiết yếu, bắt buộc.


-Tôi thấy đây là nghiên cứu khá thú vị, ở chỗ là nó không tiến hành một lần mà tiến hành nhiều lần, qua mỗi lần như vậy, chúng ta có thể so sánh dữ liệu các thời kỳ.
Có thể thấy khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã có những thay đổi tích cực: quy mô lớn lên, sự đa dạng được tăng cường và đã xuất hiện những doanh nghiệp tư nhân có thương hiệu lớn được khẳng định.

Đồng thời bức tranh về các doanh nghiệp lớn cũng gợi lên nhiều suy nghĩ khi bất động sản, tài chính vẫn chiếm tỷ trọng lớn, đến hơn 50%; ngành sản xuất, chế biến, chế tạo chỉ chiếm chưa đến 10% trong số 500 doanh nghiệp. Mặc dù có sự thay đổi tích cực so với trước nhưng thực tế này rất đáng trăn trở, làm sao để các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, chế tạo mạnh lên và dần chiếm tỷ trọng cao trong bức tranh kinh tế.
Hiện nay, một số tập đoàn hàng đầu đang chuyển biến mạnh mẽ từ bất động sản sang sản xuất công nghiệp, đã bắt đầu có những thương hiệu ô tô Việt, doanh nghiệp đi vào những lĩnh vực rất khó và tham vọng – đây là những tín hiệu rất tích cực của khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Cũng theo nghiên cứu trên, mặc dù tỷ lệ ứng dụng khoa học công nghệ cao lên đến 60-65% nhưng chủ yếu mang tính áp dụng các công nghệ sẵn có, trong khi việc tạo ra các công nghệ lõi, công nghệ nguồn, các hoạt động R&D tự thân là rất hiếm hoi. Qua đó cho thấy, chủ trương thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ là đặc biệt quan trọng và hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu cũng chỉ ra, doanh nghiệp đang sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng là chủ đạo, đặt ra yêu cầu phải khơi thông những nguồn vốn khác như trái phiếu, các quỹ đầu tư, thậm chí là tìm đến các nguồn vốn quốc tế. Nếu chỉ tập trung vào nguồn vốn ngân hàng thì sẽ dẫn đến những giới hạn nhất định về an toàn, về quy mô và tạo ra gánh nặng lớn cho hệ thống ngân hàng hiện có. Hiện tại, Việt Nam đang xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TPHCM và Đà Nẵng, cũng là một giải pháp phù hợp để huy động nhiều nguồn lực, nguồn vốn cho sự phát triển.
Qua nghiên cứu này chúng tôi cũng thấy rằng, tính kết nối, sự lan tỏa của doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ tương đối khiêm tốn; hay là tình trạng chênh lệch vùng miền rất rõ rệt. Các doanh nghiệp lớn đang tập trung ở các đô thị lớn, các vùng trọng điểm kinh tế, trong khi ở những vùng khác như miền Trung, vùng núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn tương đối khiêm tốn.
Qua nghiên cứu cũng cho thấy, nhu cầu cần phải triển khai một cách mạnh mẽ loạt chính sách vừa ban hành như Nghị quyết 68, Nghị quyết 57 hay Nghị quyết 59. Mức độ hội nhập, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn khiêm tốn so với các nước.

-Đứng ở vị thế của một người kinh doanh sẽ thấy, doanh nghiệp sản xuất gặp rất nhiều khó khăn về trình tự thủ tục, biên lợi nhuận cũng thua kém đáng kể so với lĩnh vực bất động sản và tài chính ngân hàng. Một doanh nghiệp sản xuất phải tìm được mặt bằng; vốn đầu tư lớn, dài hạn; tìm thị trường, giải quyết nhiều vấn đề về lao động, về môi trường, về phòng cháy, phải tìm khách hàng và phải đối phó với rất nhiều thay đổi, biến động của thương mại thế giới và đối mặt với rất nhiều rủi ro.
Có câu chuyện một doanh nghiệp sản xuất tái chế chia sẻ với tôi: Nhà nước đang khuyến khích tái chế. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế không thể đảo ngược, trong khi không gian cho phát triển tái chế ở Việt Nam còn rất lớn do tỷ lệ tái chế của Việt Nam chưa cao so với các quốc gia khác. Việt Nam ban hành Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có rất nhiều quy định, như trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Tuy nhiên, nhà sản xuất tái chế trên lại không thể tìm được mặt bằng kinh doanh, cứ nói đến từ tái chế là địa phương nào cũng lắc đầu. Hay như ngành dệt may, tuy rằng đây là ngành mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh và muốn đầu tư nhiều hơn vào công nghệ dệt nhuộm, tham gia sâu hơn, cao hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, song việc tìm mặt bằng để đầu tư bài bản rất khó, chưa nói đến giá thuê còn kém cạnh tranh. Như vậy giữa chính sách và thực tiễn vẫn còn khoảng cách rất lớn.
Việt Nam rất có tiềm năng nhưng doanh nghiệp sản xuất vẫn đối mặt với nhiều trở ngại. Nhiều doanh nghiệp sản xuất cho rằng, do thị trường bất động sản Việt Nam phát triển quá nóng, chính sách tài chính đất đai bất hợp lý nên giá thuê mặt bằng quá cao. Chúng ta có nhiều khu công nghiệp nhưng dường như chỉ phù hợp với các nhà đầu tư nước ngoài hoặc những nhà đầu tư tư nhân đã có vốn lớn, còn doanh nghiệp vừa và nhỏ vào được khu công nghiệp, nơi có mặt bằng bài bản, là rất khó do rào cản về chi phí thuê cao, đòi hỏi trả tiền một lần hoặc thời hạn dài, yêu cầu diện tích thuê tối thiểu lớn. Đa số doanh nghiệp sử dụng đất ở của gia đình, đất trong khu dân cư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này rất rủi ro do không được đầu tư bài bản, không có hệ thống xử lý rác thải đúng quy chuẩn, không có hệ thống hỗ trợ tốt, không đảm bảo tiêu chuẩn xanh trong khi lại tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột với người dân trong khu vực. Đứng ở góc độ nhà sản xuất là “trăm bề khó”.

Còn về phía chính quyền địa phương, động lực để thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất thực ra không nhiều. Vì với doanh nghiệp bất động sản, địa phương thu ngay được tiền sử dụng đất, tiền thuế đất, nguồn thu ngân sách trong nhiệm kỳ tăng ngay, và cũng không phải giải quyết vấn đề môi trường, vấn đề lao động, an sinh xã hội.
Chúng tôi cho rằng, cần thiết kế chính sách tốt hơn, làm sao để chính quyền địa phương bên cạnh việc phát triển các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản thì phải phát triển sản xuất, phát triển nhiều doanh nghiệp tư nhân sản xuất công nghiệp.
Việt Nam dự kiến xây dựng luật về phát triển công nghiệp, nay đổi tên là Luật phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, do Bộ Công Thương chủ trì. Tôi cho rằng, các chính sách phải tập trung nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp: Cụ thể, cần giải quyết được các vấn đề đất đai, về mặt bằng kinh doanh cho doanh nghiệp sản xuất; cần những chính sách về tín dụng tốt hơn. Nếu doanh nghiệp sản xuất phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao, thay đổi nhiều, điều kiện vay phải có tài sản thế chấp… thì rất khó. Phải có một cơ chế cấp vốn tín dụng tốt hơn, thuận lợi hơn.
Phải có những giải pháp để hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp tư nhân. Bởi các doanh nghiệp tư nhân trong nước sẽ khó cạnh tranh với doanh nghiệp FDI về thu hút nhân lực chất lượng. Các doanh nghiệp FDI với đặc điểm chu kỳ đầu tư ngắn nên thường thu hút nhân lực bằng mức lương cao, từ đó tạo áp lực về chi phí rất lớn cho doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải hỗ trợ thông qua các giải pháp về công nghệ. Bởi, để doanh nghiệp tư nhân có khả năng cạnh tranh thì phải có công nghệ tốt.
Ngoài ra, phải hỗ trợ về thủ tục hành chính. Khảo sát của chúng tôi cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân sản xuất phải đối mặt với rất nhiều gánh nặng tuân thủ trong nhiều lĩnh vực khác nhau: quy chuẩn, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục về đất đai, xây dựng, môi trường và các quy chuẩn khác từ khi xây dựng nhà máy, khiến quá trình đầu tư mất nhiều thời gian, chi phí đầu tư cao và kém cạnh tranh.
Ở nước ngoài, bên cạnh các chính sách về nguồn vốn, nhân sự, thậm chí họ đầu tư những cụm logistics phù hợp với từng ngành hàng, hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, hiện nay đa phần doanh nghiệp chúng ta vẫn đang tự bơi, tự lo vấn đề của chính mình. Do đó, tôi cho rằng nên có một thống kê về bức tranh phát triển công nghiệp, đặc biệt là của doanh nghiệp tư nhân trong nước được công bố hàng năm để biết được thực trạng, nỗ lực của từng địa phương và những thành quả mà các địa phương có thể có điều tự hào.

-Tôi cho rằng chúng ta có thể giải quyết bằng những chiến lược và quy hoạch. Ví dụ ngành công nghiệp cơ khí là một ngành rất quan trọng thì cần phải có những quy hoạch về mặt bằng kinh doanh, khu công nghiệp cho những doanh nghiệp này, phải phát triển các trung tâm nghiên cứu, các trường đào tạo nhân lực và công nghệ trong lĩnh vực cơ khí. Chúng ta cũng có thể tập trung thu hút những tập đoàn hàng đầu của châu Âu, Nhật Bản… trong lĩnh vực này. Bàn tay của Nhà nước trong việc thúc đẩy lĩnh vực này cũng rất quan trọng.
Có một điều mà tôi cho rằng nếu Việt Nam làm tốt hơn thì sẽ thúc đẩy hiệu quả. Đó là hiện tại nhà đầu tư nước ngoài đang chơi một sân riêng và doanh nghiệp tư nhân ở một khu riêng nên mức độ kết nối giữa khối FDI và khối tư nhân trong nước chưa tốt. Chẳng hạn, một nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, có thể họ làm rất chuyên nghiệp, rất tốt nhưng khách hàng chủ yếu là các tập đoàn, nhà đầu tư nước ngoài, họ tách biệt trong một khu. Khu đấy có thể hải quan, thủ tục hành chính rất thuận lợi nhưng doanh nghiệp Việt Nam ở bên lề hoặc chỉ có thể cung cấp được một vài dịch vụ, một vài sản phẩm đơn giản vào bên trong. Nên, mức độ lan tỏa của khu vực FDI đối với doanh nghiệp tư nhân là rất hạn chế.
Qua điều tra doanh nghiệp FDI nhiều năm, chúng tôi thấy tỷ lệ các doanh nghiệp FDI quy mô nhỏ ngày càng nhiều. Trước đây chúng ta kỳ vọng thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài có quy mô lớn và miếng bánh nhỏ là của doanh nghiệp Việt Nam, nhưng về sau rất nhiều doanh nghiệp FDI quy mô nhỏ cũng theo chân các tập đoàn lớn đi vào. Và theo đó, cơ hội của doanh nghiệp Việt Nam ít dần.
Tôi cho rằng, cách thiết kế lý tưởng hơn là thu hút một tập đoàn lớn nhưng có khung khổ hợp tác với nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và có bệ đỡ của Nhà nước. Hiện nay Việt Nam có những công cụ như quỹ hỗ trợ doanh nghiệp thu từ thuế tối thiểu toàn cầu và theo tôi có thể dùng để thúc đẩy hoạt động nói trên, nhằm để các doanh nghiệp FDI có sự tương tác, liên kết với doanh nghiệp trong nước được hưởng những hỗ trợ tốt hơn về mọi mặt, những lợi ích tốt hơn từ Chính phủ.
Không chỉ nằm ở mong muốn, ý chí chính trị mà phải thiết kế thành chính sách cụ thể để các tập đoàn nước ngoài có động lực kinh tế, có chương trình hành động gắn với các doanh nghiệp Việt Nam, với các cơ sở nghiên cứu tại Việt Nam.


Đây là câu hỏi rất quan trọng. Việt Nam phải phát triển theo hướng công khai, minh bạch và điều này liên quan đến quy trình lựa chọn nhà đầu tư. Cần phải thiết kế một quy trình để những người tiếp cận được nguồn lực phải là những người giỏi nhất chứ không phải là những người quen biết tốt nhất, phải là những người “know how” – nghĩa là người biết cách làm, có khả năng trình độ tổ chức sản xuất, chứ không phải “know who” – những người “biết nên quan hệ với ai”.
Các nguồn lực như đất đai, quyền kinh doanh, vốn, khoáng sản… phải chảy vào những người giỏi nhất chứ không phải những người quen biết thì mới được sử dụng có hiệu quả. Nhưng để chọn được những người giỏi, biết làm thì trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư phải công khai, minh bạch, quy trình được “lộ sáng” nhiều. Tôi tin rằng các địa phương cũng hiểu được điều đó, nhiều nơi đã chủ động xúc tiến đầu tư những tập đoàn, doanh nghiệp có năng lực, có uy tín. Đó là những cách thức rất phù hợp.

Đối với các dự án lớn, luôn phải có sự lắng nghe nhiều chiều, có sự phản biện phù hợp, huy động được sự tham gia của nhiều bên để có thể phát triển một cách cân bằng. Tôi ấn tượng mãi trong chuyến nghiên cứu tại Thụy Điển, tôi được đến thăm một tổ chức xã hội rất đặc biệt, họ có nhiệm vụ đi điều tra các tập đoàn của Thụy Điển làm ăn ở bên ngoài nước này có tuân thủ pháp luật nước sở tại, có tuân thủ các tiêu chuẩn cao của Thụy Điển về thuế, về môi trường, về đạo đức, về văn hóa hay không. Khuyến khích sự giám sát của các tổ chức xã hội như tổ chức này theo tôi đây là cách làm tốt để giám sát doanh nghiệp bên cạnh hệ thống quản lý của Nhà nước.
Với doanh nghiệp Việt Nam, sức ép từ thị trường cũng sẽ là một động lực quan trọng để họ điều chỉnh hành vi. Điều tra của VCCI chúng tôi cũng cho thấy, những doanh nghiệp, địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp xuất khẩu cao, đặc biệt sang những thị trường quan trọng thì sẽ có tỷ lệ phát triển xanh cao hơn, do họ có động lực từ thị trường yêu cầu.
Nhiều doanh nghiệp làm ăn với các nước phát triển đầu tư cho khoa học công nghệ, giải quyết các vấn đề lao động, quan hệ lao động hay quản trị nội bộ như xử lý tham nhũng rất tốt, không phải chỉ là tuân thủ quy định của Nhà nước mà còn vì yêu cầu của khách hàng. Và như vậy, việc khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam lọt vào chuỗi sản xuất toàn cầu cũng là một giải pháp đặc biệt quan trọng để họ tự nâng cấp mình lên, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường, từ đó nâng cao chất lượng, uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp Việt Nam.

-Tôi cho rằng là có nhiều yếu yếu tố. Một là, bản thân doanh nghiệp khi đi ra nước ngoài phải hiểu rõ về thị trường. Nhiều doanh nghiệp Việt chủ yếu vẫn đang làm ăn với những thị trường truyền thống và phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ, việc khai mở thị trường mới là một thách thức rất lớn, có thể là do doanh nghiệp chưa quen thuộc về quy tắc, luật lệ, văn hóa, sản phẩm của thị trường đó.
Điều tích cực là theo thời gian dần xuất hiệu nhiều hơn những doanh nghiệp chinh phục các thị trường lớn trên thế giới. Song dường như, các doanh nghiệp Việt đi bán hàng, xuất khẩu nhiều song đưa công nghệ từ nước ngoài về thì lại tương đối khiêm tốn. Chúng tôi biết có những doanh nghiệp đã đầu tư mua cả một công nghệ nhà máy về, thậm chí mua cả một thương hiệu lâu đời của thế giới, nhưng trường hợp như vậy rất hiếm hoi.
Như vậy, doanh nghiệp đi ra bên ngoài không chỉ bán hàng mà còn làm ăn với chuỗi sản xuất, là một kênh để nhập khẩu công nghệ. Tuy vậy, các doanh nghiệp cũng đang gặp phải những rào cản, ví dụ như rào cản về đầu tư ra nước ngoài.
Trước đây doanh nghiệp tư nhân mang vốn đầu tư nước ngoài cũng phải gặp rất nhiều rào cản về mặt thủ tục. Theo Luật Đầu tư, doanh nghiệp phải xin phép, phải giải trình, nếu có sự thay đổi về kế hoạch kinh doanh thì sẽ phải quay trở về sửa đổi báo cáo, và phải trả lời rất nhiều câu hỏi với cơ quan quản lý nhà nước, như “Tại sao đầu tư nhiều năm không có lãi?”, “Tại sao đầu tư vào doanh nghiệp này nhiều hay ít?”. Tóm lại, việc mang tiền ra ngoài rất phức tạp.
Có lẽ ở giai đoạn đầu, Việt Nam vẫn đang tiếp cận rất dè dặt nhưng tôi tin rằng giờ đã khác. Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có quy mô lớn, tự tin bước ra toàn cầu và tư duy chính sách của Nhà nước cũng cởi mở hơn.
Một tin vui là Luật Đầu tư sửa đổi đã được Quốc hội tại kỳ họp vừa rồi, trong đó, phần lớn hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã dễ dàng hơn. Trọng tâm quản lý của Nhà nước là tập trung quản lý về ngoại hối chứ không còn phải cấp phép cho từng dự án tư nhân như trước. Chúng tôi hy vọng sẽ có nhiều doanh nghiệp đi ra bên ngoài không chỉ với tư cách bán hàng mà còn với tư cách là một nhà đầu tư vốn, đầu tư công nghệ, đầu tư trong lĩnh vực chiến lược.

Tôi thấy một số lĩnh vực Việt Nam rất mạnh. Ví dụ trong lĩnh vực viễn thông, Viettel là một doanh nghiệp nhà nước nhưng đã đầu tư rất thành công. Bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp khác như TH Milk, Vinamilk. Các doanh nghiệp Việt cũng đã có rất nhiều dự án thành công trong khu vực Lào, Campuchia, Myanmar và nhiều dự án đầu tư ra bên ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp rất thành công. Theo đó, tôi tin có nhiều lĩnh vực khác, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cũng hoàn toàn có thể thành công ở nước ngoài.

– Năm nay là năm thứ 21 chúng tôi điều tra về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Chúng tôi khảo sát tất cả tỉnh, thành phố và đều hỏi nguyên một câu hỏi “Khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình hoạt động là gì?”. Qua 20 năm, những vấn đề lớn nhất với doanh nghiệp gần như không thay đổi nhiều, ngoại trừ một số năm xảy ra dịch bệnh hay gần đây là vấn đề về thuế đối ứng về của Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhìn chung, vấn đề lớn nhất đối với doanh nghiệp tư nhân chủ yếu vẫn là vốn.
Vấn đề thứ hai là đất đai, mặt bằng kinh doanh. Thứ ba là thủ tục hành chính. Thứ tư là những vấn đề liên quan nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực. Thứ năm là vấn đề về thị trường. Các khó khăn xoay quanh những vấn đề lớn đó.
Do vậy, nếu giải quyết được những vấn đề liên quan đến vốn, mặt bằng kinh doanh, thủ tục hành chính, tôi tin là sẽ tạo thuận lợi rất nhiều cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Nghị quyết 68 về phát triển tư nhân đưa ra một con số rất quan trọng cần đạt được là số lượng doanh nghiệp hoạt động chính thức. Tháng 9 vừa rồi, chúng ta đã đạt được một dấu mốc quan trọng là có 1 triệu doanh nghiệp đăng ký hoạt động chính thức. Việt Nam đang hướng tới 2 triệu doanh nghiệp hoạt động chính thức trong năm 2030. Vấn đề là làm sao thúc đẩy người dân bỏ tiền vào kinh doanh, khởi nghiệp một cách bài bản, tức là đăng ký chính thức.
Con số này, theo tôi, chuyển tải được rất nhiều vấn đề khác nhau. Đằng sau con số này có thể là các hộ kinh doanh phải lớn lên, mạnh lên; có thể những người đang “chôn tiền” ở trong ngân hàng, trong két sắt có thể ra khởi nghiệp bằng chuyên môn, tài năng, ý chí của mình.
Nếu nhà nhà đều có ý tưởng, có mong muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ tạo nên sự phát triển kinh tế rất lớn, không chỉ giải quyết công việc cá nhân mà còn đóng thuế cho Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người khác. Điều này gửi đi thông điệp cho bộ máy chính quyền các cấp, làm sao thúc đẩy thành lập được nhiều doanh nghiệp hơn nữa. Suy cho cùng, tôi nghĩ đây là mục tiêu quan trọng nhất của hệ thống chính quyền, phải là một niềm tự hào, là thành tích chính trị: Nhiệm kỳ đó, chính quyền địa phương kéo được bao nhiêu dự án đầu tư, thúc đẩy thành lập được bao nhiêu doanh nghiệp mới? Nếu những con số này gắn liền với uy tín chính trị thì chắc chắn sẽ tạo ra những chuyển động rất tích cực.

Phải chắt chiu để khi đứng trước những con số doanh nghiệp rời khỏi thị trường người ta phải cảm thấy sốt ruột. Đành rằng, việc doanh nghiệp đóng cửa có nguyên nhân từ sự sàng lọc nghiệt ngã của thị trường, song nếu do khó khăn về thủ tục hành chính, do sự trục trặc của quy định thì phải giảm thiểu, phải có những chương trình hành động để nuôi dưỡng doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Điểm quan trọng nữa là làm sao để có những doanh nghiệp hội nhập được vào chuỗi sản xuất toàn cầu, trở thành những doanh nghiệp quan trọng trên thị trường thế giới. Hiện nay, trong Nghị quyết 68 cũng đưa ra con số 20 doanh nghiệp phải khẳng định được thương hiệu toàn cầu. Muốn có được con số đó, chúng ta phải có một hệ thống nuôi dưỡng, một bệ đỡ từ phía Nhà nước. Và tôi nghĩ, chính quyền mọi nơi đều như vậy, vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ doanh nghiệp là rất lớn.

Theo tôi, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của đại sứ các nước ở Việt Nam là đi bán hàng cho doanh nghiệp. Một người bạn tôi làm trong tập đoàn rất lớn cho biết, cô ấy rất ngạc nhiên sau khi một dự án lớn của doanh nghiệp tư nhân được công bố ở Việt Nam thì những người đến tiếp xúc đầu tiên với doanh nghiệp đó là các nhà ngoại giao, các quan chức chính quyền nước ngoài chứ không phải là doanh nghiệp nước ngoài. Chính những người này chủ động tiếp xúc với các tập đoàn Việt Nam để bán hàng cho doanh nghiệp của họ chứ không phải là đội ngũ bán hàng của các doanh nghiệp. Ở Hà Nội chúng ta thấy những tuần lễ sản phẩm nông sản của Úc, của Canada, của Châu Âu. Thực tế là hiện nay cơ quan chính quyền, ngoại giao của các nước rất tích cực đi hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường, thậm chí là tăng cường sử dụng các sản phẩm của họ để nhằm tác động, thay đổi thói quen của người tiêu dùng.
Tôi nghĩ, khi nào chúng ta có được cái tinh thần ấy trong mọi giới, mọi cơ quan thì có lẽ sự phát triển của doanh nghiệp Việt cũng sẽ thuận lợi hơn.
Xin trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn: https://dantri.com.vn/kinh-doanh/viet-nam-muon-tu-luc-tu-cuong-phai-xay-dung-doanh-nghiep-dan-toc-20251222221820992.htm

